Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

Phần 57

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Huệ Trang và Đức Phong

 

Tập 113

 

            Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm ba mươi bốn, hàng thứ hai, xem từ câu cuối.

            “Diệc chánh như Viên Giác kinh viết: ‘Tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác. Cố ư huyễn tướng vô trước, vô đắc” (cũng đúng như kinh Viên Giác đă nói: “Biết huyễn liền ĺa, ĺa huyễn tức là giác. V́ thế, đối với huyễn tướng chẳng chấp trước, chẳng đạt được”). Trong phần trước, chúng ta đă học qua, các đồng học tu Tịnh Độ chớ nên quên, phải học trí huệ của Văn Thù Bồ Tát, phải học hành môn của Phổ Hiền Bồ Tát; trong các phần trước, chúng tôi đă nói rất nhiều. Điều này là một chuyện rất khó, nhưng chẳng thể không học, pháp môn này thù thắng khôn sánh. Điều trọng yếu nhất là trước hết phải nhận biết nó, mục đích đầu tiên của kinh giáo là nhằm chỉ dạy, hướng dẫn chúng ta nhận biết và liễu giải pháp môn này. Nhận thức càng sâu, liễu giải càng thấu triệt, công phu tu hành tự nhiên đắc lực. Hễ công phu chẳng đắc lực, đều là do chẳng nhận thức rơ ràng chân tướng sự thật; trong kinh luận, Phật, Bồ Tát, tổ sư đại đức thường khuyên dạy chúng ta điều này. Trong phần trước, [sách Chú Giải] đă dẫn thí dụ trong kinh Bảo Tích, tiếp theo đó, cũng trích dẫn mấy câu trong kinh Viên Giác, trong ấy có hai câu: “Tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác”, hai câu này là kinh văn. Chúng ta nhất định phải biết khắp pháp giới hư không giới, trong phần trước, tôi đă thưa cùng chư vị, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới chẳng phải là thật, kể cả cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai cũng chẳng thật. Đối với tiêu chuẩn “chân - vọng”, Phật pháp có một tiêu chuẩn tuyệt đối: Thật sự vĩnh hằng bất biến th́ là Chân; nếu có biến hóa, đó là Giả. Vậy th́ chúng hăy ta suy nghĩ, trong thế giới hiện thời, đối với các đối tượng tiếp xúc của sáu căn, có thứ nào mắt trông thấy mà chẳng biến hóa? Tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi vị, lưỡi nếm năm vị, cho đến ư căn tiếp xúc pháp trần, đều là các hiện tượng sanh diệt, đều có biến hóa. Nói chung, động vật có sanh, lăo, bệnh, tử, sự biến hóa ấy được gọi là “vô thường”. Thực vật có sanh, trụ, dị, diệt, khoáng vật có thành, trụ, hoại, không; chỉ có một thứ chúng ta chẳng nh́n thấy sự biến hóa của nó, tức là hư không. Trong Bách Pháp [Minh Môn Luận], hư không được xếp vào loại vô vi pháp, tức là Hư Không Vô Vi. Hư không có phải là chân thật hay không? Hư không cũng chẳng phải là thật, pháp vô vi thật sự chỉ có một, tức là Chân Như Vô Vi. Năm thứ kia là Tương Tự Vô Vi, [có nghĩa là] giống như pháp vô vi, nhưng trên thực tế, chúng vẫn có sanh diệt.

            Các nhà khoa học hiện thời nói thời gian và không gian chẳng thật. Giáo pháp Đại Thừa bảo chúng ta: Tu hành đến mức đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, quư vị bèn đột phá các chiều không gian. “Đột phá các chiều không gian” là chuyện như thế nào? Thời gian chẳng c̣n nữa, thời gian là giả. Thời gian không có, bèn chẳng có trước và sau, chẳng có quá khứ, mà cũng chẳng có tương lai, mà là ngay lập tức, quư vị có thể thấy quá khứ, mà cũng có thể thấy tương lai. Chẳng có không gian th́ sao? Chẳng có không gian bèn chẳng có khoảng cách, thế giới Cực Lạc ở nơi đâu? Ở ngay nơi đây! Thật đấy, chẳng giả đâu! Trong phần khai thị của [Tam Thời] Hệ Niệm Pháp Sự, thiền sư Trung Phong đă bảo chúng ta: “Tâm ta tức là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật tức là tâm ta; phương này chính là Tịnh Độ, Tịnh Độ chính là phương này”. Cảnh giới ấy là cảnh giới đại triệt đại ngộ, chẳng giả! Nếu quư vị đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, sẽ chứng đắc cảnh giới ấy. Tại Ấn Độ, các vị Bồ Tát và A La Hán đă chứng đắc; tại Trung Quốc, Huệ Năng đại sư đốn ngộ, đốn chứng. Lịch đại tổ sư khai ngộ trong Tông Môn, quư vị đọc Truyền Đăng Lục và Ngũ Đăng Hội Nguyên [sẽ thấy] ghi chép rất nhiều. Đại khai viên giải của Giáo Hạ và niệm đến mức Lư nhất tâm bất loạn [trong Tịnh Độ] đều là nhập cảnh giới này, cũng tức là quư vị đă hiểu rơ chuyện thời gian và không gian, chúng chẳng phải là thật, mà là giả. Giả th́ phải buông xuống, giả th́ không chỉ chẳng mang theo được, mà chúng c̣n gây ra phiền phức. Phiền phức là ǵ? Phiền phức là mang đến nghiệp báo cho quư vị. Quư vị thiện tâm, thiện hạnh, bèn sanh trong ba thiện đạo; ác niệm, ác hạnh sẽ sanh trong ba ác đạo, phiền phức ở chỗ này.

            V́ thế, người thật sự tu hành, người niệm Phật nhất tâm nhất ư cầu sanh Tịnh Độ. Cầu sanh Tịnh Độ v́ lẽ ǵ? Để thân cận A Di Đà Phật, Ngài là bậc đại thiện tri thức đệ nhất trong thế gian lẫn xuất thế gian. Ở nơi đây, chúng ta tu hành chứng quả rất khó khăn, dễ ǵ nói đến chuyện thành Phật? Đến thế giới Cực Lạc bèn rất dễ dàng: Thầy tốt, A Di Đà Phật là thầy; hoàn cảnh tốt đẹp. Nhất là sanh về thế giới Cực Lạc, thọ mạng giống như A Di Đà Phật, ai nấy đều là vô lượng thọ. Bạn học tốt đẹp, tức là các vị thượng thiện nhân, những thiện nhân ấy thuộc địa vị nào? Đẳng Giác Bồ Tát, hoặc Thập Địa Bồ Tát, quư vị là bạn học của các Ngài. Do vậy, hễ sanh về ấy, có thể nói là đảm bảo quư vị thành Phật. T́m đâu ra một nơi nào khác [giống như vậy]? Ngoại trừ pháp môn Tịnh Độ, chẳng t́m được [pháp môn nào khác]! Do vậy, pháp môn này được gọi là “môn dư đại đạo” (đại đạo nằm ngoài các pháp môn khác). Chữ “môn” ấy chỉ tám vạn bốn ngàn pháp môn, [“môn dư đại đạo” có nghĩa là] đạo thành Phật đặc biệt ở ngoài tám vạn bốn ngàn pháp môn. Chẳng có duyên phận, chẳng thể gặp gỡ th́ thôi, chẳng c̣n nói ǵ nữa; nhưng nếu được gặp gỡ mà chẳng nắm vững, chẳng thể thành tựu trong một đời, quá đáng tiếc! Vậy th́ quư vị mong nắm chắc trong một đời, thật sự thành tựu trong một đời, điều vô cùng cần thiết là phải thấy thấu suốt. Đoạn kinh văn này dạy chúng ta thấy thấu suốt, bảo cho chúng ta biết thế giới này chẳng thật, toàn là giả. Nếu quư vị chấp trước nó, sai mất rồi! Thí dụ như quư vị mong khống chế nó, muốn chiếm hữu nó, thôi rồi, trong tương lai quư vị tiếp tục luân hồi chẳng ngơi trong lục đạo, chẳng có phần thành tựu trong đời này. Do vậy, phải triệt để buông xuống.

            Buông xuống! V́ sao kẻ ấy chưa buông xuống được? Chưa thấy thấu suốt, tức là chẳng liễu giải chân tướng sự thật. Đối với các kinh luận, cụ Hoàng Niệm Tổ đă hết sức khó có, trích dẫn khá nhiều khai thị trong các kinh luận nhằm giúp chúng ta thấy thấu suốt. Kinh Bảo Tích giảng: “Như huyễn sư tác huyễn, tự ư huyễn bất mê, dĩ tri huyễn hư cố, Phật quán thế diệc nhiên” (như nhà ảo thuật làm ảo thuật, đối với những thứ huyễn bèn chẳng mê, v́ biết những thứ huyễn ấy là giả. Đức Phật quán cơi đời cũng giống như thế). Trong buổi học trước, chúng tôi đă nói điều này. Một câu kinh rất nổi tiếng trong kinh Viên Giác là “tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác”, hai câu ấy nói hay quá! V́ sao người thế gian chẳng thể ĺa? “Ĺa” là buông xuống, v́ sao chẳng thể buông xuống? Do không biết. Chẳng biết thế gian này là giả, chẳng thật. Trong Chứng Đạo Ca, Vĩnh Gia đại sư đă nói: “Mộng lư minh minh hữu lục thú” (trong mộng rành rành phô sáu nẻo), “lục thú” (六趣) là lục đạo luân hồi. Mộng là ǵ? Mộng là nói tới mê. Mê chứ chẳng giác, nên dường như thật sự có lục đạo luân hồi. Lục đạo luân hồi cũng chẳng phải là giả, nhưng phải hiểu nó là một thứ trong mộng! Nếu quư vị tỉnh giấc, lục đạo chẳng c̣n nữa, giống hệt như mộng vậy! Giấc mộng ấy khá lâu dài, thời gian rất dài. Đă giác ngộ, giác ngộ là tỉnh mộng, cũng chẳng c̣n lưu luyến lục đạo nữa, cũng chẳng c̣n lưu tâm nơi đó nữa, như vậy là đúng. Đó là thật sự khai ngộ trong Phật môn, sự khai ngộ này chưa phải là đại triệt đại ngộ, nhưng được kể như là đại ngộ. Nhà Phật bảo “tích tiểu ngộ thành đại ngộ”. Khi nào biết là đại ngộ? Thật sự buông xuống là đại ngộ, chưa buông xuống th́ vẫn đang mê, mê chứ chẳng giác. Ly huyễn th́ ly huyễn là đă giác ngộ. Trong tựa đề kinh có “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, năm chữ ấy trong tựa đề kinh chính là ba giai đoạn tu hành.     

            Hiện thời, chư vị đều biết, trên khắp thế giới, chẳng riêng một nơi nào, tai nạn quá nhiều, trong lịch sử Trung Quốc lẫn ngoại quốc đều chưa hề có, những tai nạn kỳ quái hiện thời đều bộc phát cả rồi. Hôm qua, có một đồng học hạ tải một bài báo từ Internet đưa cho tôi xem: Ở ngoại quốc, vừa phát hiện một loại virus mới đang truyền nhiễm, từ Nam Á truyền sang Ấn Độ rồi từ đó truyền đến Âu Châu. Rất có thể loại ôn dịch này sẽ lan truyền khắp thế giới. Rất đáng sợ! Virus ấy rất nghiêm trọng, đó là ôn dịch. Động đất, núi lửa, sóng thần, hạn hán, lụt lội, toàn thể thế giới đều có. V́ sao có các hiện tượng ấy? Chúng ta đă học giáo pháp Đại Thừa nhiều năm ngần ấy, bèn hiểu rơ. Trong các buổi giảng, chúng tôi thường bảo các đồng học, thế giới này và thế giới Cực Lạc có ǵ khác biệt? Nói theo Lư, chẳng có mảy may sai biệt. Không chỉ là hai thế giới, mà mười phương vô lượng vô biên các cơi Phật, cũng chính là vô số tinh cầu trong hư không mà chúng ta trông thấy vào ban đêm, các thế giới ấy đều là b́nh đẳng, chẳng có sai biệt. Thảy đều là “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, làm sao có sai biệt cho được? V́ sao Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu Hoa Tạng, giới thiệu Tịnh Độ của A Di Đà Phật tốt đẹp dường ấy? Nh́n thấy địa cầu của chúng ta lắm tai nạn ngần ấy, là nguyên do ǵ? Đức Phật đă dạy: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, chớ nên quên câu này! Sanh từ tâm tưởng, chúng ta bèn biết, cư dân trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, tức là những người sống trên quả địa cầu đó, nghĩ tưởng ǵ? Những người ấy luôn nghĩ đến Phật pháp Đại Thừa, ở đây nói là “ư huyễn bất mê, tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác” (đối với huyễn chẳng mê, biết là huyễn liền ĺa, ĺa huyễn chính là giác), họ là hạng người như thế đó. Các cơi Phật trong vũ trụ và thế gian của chúng ta khác nhau. Quư vị thấy trong thế giới Cực Lạc, hoặc trong thế giới Hoa Tạng, chẳng nghe nói có quốc gia, chẳng nghe nói có quốc vương, chẳng nghe nói có  đại thần, chẳng có chuyện ấy! Chẳng nghe nói có sĩ, nông, công, thương.

            Tây Phương Cực Lạc thế giới có hai loại người, chư vị phải biết điều này, thế giới ấy đơn thuần lắm! Hai loại người, một là thầy, A Di Đà Phật là thầy, người văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới đều là học tṛ. Người trong Tây Phương Cực Lạc mỗi ngày làm chuyện ǵ? Đi học. A Di Đà Phật giảng kinh, thuyết pháp, các vị Bồ Tát văng sanh hằng ngày nghe Phật giảng kinh, nghe Phật dạy bảo, bèn chẳng có vọng tưởng, chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước. Họ học tập ở bên ấy đúng là chẳng gián đoạn, ngày đêm đều chẳng gián đoạn. Thế giới Cực Lạc chẳng có ngày đêm, cao hơn chư thiên, Sắc Giới Thiên chẳng có ngày đêm. Do vậy, nói theo cách chúng ta [thường nói], nơi ấy là trường học, là Phật học viện. Trong vũ trụ, A Di Đà Phật lập một Phật học viện, mười phương chư Phật Như Lai, quư vị thấy chẳng có vị Phật nào không khuyên đệ tử của Ngài đến học trong thế giới Cực Lạc. Văng sanh thế giới Cực Lạc là đến học trong thế giới Cực Lạc, nay chúng ta nói là “du học”, [văng sanh là] đến du học trong thế giới Cực Lạc. Đến bên kia chắc chắn thành Phật, lại c̣n hết sức nhanh chóng. Hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, mười hai kiếp bèn thành Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật nói lời này trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, quyết định chẳng phải là giả. Trong thế gian này, nếu muốn thành Phật, đức Phật nói phải trải qua vô lượng kiếp, đến thế giới Cực Lạc [chỉ mất] mười hai kiếp, quư vị thấy đỡ tốn bao nhiêu thời gian! Đây là nói về trường hợp chậm nhất. Nếu công phu tu hành của quư vị khá hơn, có thể văng sanh trong trung phẩm hoặc thượng phẩm, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới đại khái chỉ có hai kiếp hoặc ba kiếp bèn thành công. Nếu là người thật sự niệm đến mức Lư nhất tâm bất loạn, đại triệt đại ngộ, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn thành Phật, sanh trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm, chẳng phải là cơi Đồng Cư, mà cũng chẳng phải là cơi Hữu Dư, trực tiếp sanh vào cơi Thật Báo. Những lư sự này đều được đức Phật giảng thấu triệt như vậy trong kinh, chúng ta phải cảm tạ, đó là đại ân đại đức của đức Phật dành cho chúng ta. Chúng ta thật sự hiểu rơ, minh bạch rồi, tâm niệm Phật mới thật sự phát khởi, thật sự tu hành, thật sự niệm Phật. V́ sao? Ta đă hiểu rơ, minh bạch chuyện này, mà cũng hiểu rơ ràng minh bạch thế giới này. Những sự tao ngộ trong mỗi đời của tất cả chúng sanh trong hết thảy các cơi nước, nói một câu chân thật th́ đều là “tự làm, tự chịu”. Đó chính là “hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, trong tâm quư vị nghĩ như thế nào, hoàn cảnh bên ngoài biến hiện như thế ấy, ai là chủ tể? Chính ḿnh là chủ tể! Trong ngàn kinh muôn luận, đức Phật đă dạy điều này chẳng biết bao nhiêu lần. “Duy tâm sở hiện”, tâm của ai? Tâm của chính ḿnh; “duy thức sở biến”, thức của ai? Phân biệt và chấp trước của chính ḿnh, chẳng liên can đến ai khác! Chớ nên chẳng biết chân tướng sự thật này!

            Nếu tâm người trên địa cầu chúng ta đều thiện, chẳng trái phạm Tam Học Giới - Định - Huệ như Phật đă dạy trong kinh giáo, c̣n người chẳng học Phật, như người Trung Quốc [chẳng hạn] mà có thể tin tưởng giáo huấn của tổ tiên, tuân thủ luân lư, Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, đều chẳng ĺa các tiêu chuẩn ấy, thế giới này sẽ vô cùng tốt đẹp, thế giới này sẽ được gọi là cơi đời thịnh trị. Trước hết, thân tâm mỗi người khỏe mạnh, gia đ́nh hạnh phúc, sự nghiệp thuận lợi, xă hội ḥa hài, thiên hạ thái b́nh. Do ḷng người chiêu cảm, do ḷng người tốt lành, nên núi, sông, đại địa hoàn toàn chẳng có các tai nạn, kinh Phật đă dạy như vậy. Tướng do tâm sanh, cảnh chuyển theo tâm, tướng mạo và thân thể của chúng ta khỏe mạnh là do ư niệm chuyển biến. Ư niệm của ta tốt đẹp, con người bèn khỏe mạnh, sống lâu, chẳng ngă bệnh. Tâm ta lẫn hành vi đều tốt đẹp, ở nơi đâu, nơi ấy chẳng có tai nạn. Điều này chẳng có ǵ hiếm hoi, lạ lùng, t́nh h́nh vốn là như thế đó. Hoàn cảnh đều là do ư niệm [mà biến hóa]; v́ thế, ư niệm rất bất phàm, sức mạnh của nó rất lớn. Ư niệm bất thiện là tai nạn, tâm hạnh của quư vị chẳng lành th́ đối với chính ḿnh mà nói, chính ḿnh toàn thân đầy bệnh tật, gia đ́nh bất ḥa, công việc chẳng thuận lợi, chỗ ở thường xảy ra tai nạn như hạn hán, lụt lội, động đất, đều do ư niệm của chính ḿnh phát khởi, biến hiện. Đức Phật đă nói [những điều này] từ mấy ngàn năm trước.

            Theo ghi chép của tổ tiên Trung Quốc và lịch đại tổ sư, khác với cách nói của người ngoại quốc, người ngoại quốc nói: Từ lúc Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ cho đến nay là hơn hai ngàn năm trăm năm mươi năm. Tổ tiên người Trung Quốc ghi chép khác với cách nói ấy, họ chép rất rơ ràng là Thích Ca Mâu Ni Phật sanh nhằm năm thứ hai mươi bốn đời Châu Chiêu Vương, tức là năm Giáp Dần, Dần là cọp, Thích Ca Mâu Ni Phật tuổi Cọp, năm Giáp Dần mà! Đức Phật diệt độ nhằm năm thứ năm mươi ba đời Châu Mục Vương. Nếu theo cách ghi chép này, từ khi đức Phật diệt độ đến nay phải là ba ngàn lẻ ba mươi bảy năm, đó là cách nói được chư tổ tương truyền tại Trung Quốc. Trong quá khứ, lăo ḥa thượng Hư Vân đă dùng cách nói này, vị thuộc thế hệ trước đó là Ấn Quang đại sư cũng tuân theo cách nói này. Đương nhiên người ngoại quốc cũng có căn cứ, nhưng người Trung Quốc cũng có căn cứ, chẳng cần phải tranh luận chuyện này. Đây chẳng phải là chuyện to tát ǵ mà là chuyện nhỏ nhoi, chuyện vặt vănh như lông gà, vỏ tỏi! Đối với văn hóa của chính ḿnh, đối với điều được chư tổ tương truyền, chúng ta phải có tín tâm. Lịch đại tổ sư trong quá khứ tại Trung Quốc là những bậc hữu tu, hữu học, hữu chứng, chẳng phải là kẻ tầm thường, người b́nh thường sẽ chẳng làm được, các Ngài thật sự là những vị tái lai. Nếu chúng ta chẳng thể tin tưởng các Ngài, chẳng có tín tâm, sẽ chẳng có cách nào học tập!

            Điều được kinh điển nói, được các tổ sư truyền, c̣n rất khó có là các nhà khoa học cận đại, tức là các nhà thuộc ngành khoa học tiên phong là Lượng Tử Lực Học đă phát hiện. Trong những báo cáo do họ đưa ra, rất nhiều điều giống như trong kinh Phật đă nói. Thí dụ như ở đây nói: “Tri huyễn hư cố” (do biết huyễn là hư vọng), họ đă phát hiện điều này. Phát hiện trong vũ trụ này, bất luận tinh thần hay vật chất đều là giả, đều chẳng phải là thật. Tinh thần và vật chất do đâu mà có? Họ nói là do ư niệm mà có, chúng ta nói là “niệm đầu”, cách nói này giống như trong kinh Phật đă nói. Kinh Nhân Vương dạy: Trong một cái khảy ngón tay có sáu mươi sát-na, một sát-na có chín trăm niệm. Chúng ta học tập kinh giáo biết Thích Ca Mâu Ni Phật nói theo kiểu ấy là nói phương tiện, chẳng phải là chân thật. Nói phương tiện th́ được, v́ người b́nh phàm chẳng có cách nào lư giải điều này. Cuộc đối thoại giữa Thích Ca Mâu Ni Phật và Di Lặc Bồ Tát trong kinh Bồ Tát Xử Thai là nói chân thật, chẳng phải là nói phương tiện. Đức Phật hỏi Di Lặc Bồ Tát, phàm phu khởi một niệm, “tâm hữu sở niệm” (trong tâm dấy lên một niệm) th́ trong một niệm ấy có bao nhiêu tế niệm, tức là [có bao nhiêu] ư niệm vi tế? Có bao nhiêu tướng? Tướng là hiện tượng vật chất. Có bao nhiêu thức? Thức là Thọ, Tưởng, Hành, Thức; tướng là Sắc, có những hiện tượng như thế xuất hiện. Di Lặc Bồ Tát trả lời, cũng dùng một cái khảy ngón tay, bao nhiêu niệm? Ba mươi hai ức trăm ngàn niệm. Dùng “trăm ngàn” làm đơn vị, chúng ta tính toán hoán đổi, th́ [trong thời gian] một cái khảy ngón tay bèn có ba trăm hai mươi triệu [tế niệm], nhiều hơn kinh Nhân Vương đă nói quá nhiều. Nếu chúng ta khảy nhanh, một giây khảy được năm lần, tôi tin là có thể. Tôi có thể khảy bốn lần, tôi tin có người khảy nhanh hơn tôi, thân thể khỏe mạnh hơn tôi, động tác nhanh hơn tôi. Nếu một giây khảy năm lần, bèn là bao nhiêu triệu? Một ngàn sáu trăm triệu, vậy là một giây có bao nhiêu tế niệm? Có một ngàn sáu trăm triệu niệm vi tế.

            Niệm nhiều dường ấy, liên tục tích lũy chẳng ngừng, bèn sanh ra huyễn tướng. Trong huyễn tướng ấy có tinh thần và có vật chất, nói theo danh từ Phật pháp là Ngũ Uẩn, tức Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức xuất hiện. Đó là ba tế tướng của A Lại Da, các nhà Lượng Tử Học hiện thời đă phát hiện, chúng ta chẳng thể không bội phục họ. Trong kinh đức Phật đă nói, thức thứ sáu là Ư Thức, có công năng phân biệt vô cùng to lớn, đối ngoại, nó có thể duyên khắp pháp giới hư không giới, đối nội, nó có thể duyên đến A Lại Da. Hiện thời, Lượng Tử Lực Học đă duyên đến A Lại Da, nhưng chẳng duyên đến tự tánh. Nếu lại hỏi, các hiện tượng ư niệm ấy do đâu mà có, Lượng Tử Lực Học chẳng có cách nào trả lời, nhưng kinh Phật th́ có. Đức Phật dạy, trong vũ trụ có một Lư Thể thật sự, có thể sanh ra vạn sự, vạn vật, Lư Thể ấy được gọi là tự tánh, “minh tâm kiến tánh” là quư vị t́m được điều này. Trong triết học, nó được gọi là “bản thể của vũ trụ vạn hữu”. Nó có thể sanh, có thể hiện, có thể biến; muôn h́nh muôn vẻ trong toàn thể vũ trụ là cái được sanh, cái được hiện, cái được biến. Khoa học chẳng t́m được cái “có thể sanh, có thể hiện, có thể biến” này. V́ sao? V́ chẳng thể dùng phân biệt, càng chẳng thể dùng chấp trước. Quư vị có phân biệt, có chấp trước, bèn là vọng tâm, vọng tâm chỉ có thể duyên vọng. A Lại Da là vọng, nên có thể duyên đến những hiện tượng hư vọng trong khắp pháp giới hư không giới, nhưng chẳng thể duyên Chân. Phải như thế nào th́ mới có thể duyên Chân? Buông vọng xuống sẽ duyên được, thấy được; v́ thế nói “tri huyễn tức ly”, ly huyễn bèn giác. Giác ấy chính là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, người ấy (người ly huyễn) đă chứng đắc cảnh giới ấy. Trong Phật pháp, người ấy được gọi là Phật Đà, đă thành Phật. Nhà khoa học, nhà khoa học Lượng Tử hăy c̣n cách biệt Phật một khoảng, tùy thuộc người ấy có thể buông xuống hay không? Nếu thật sự có thể buông toàn bộ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, người ấy bèn thành Phật.

            Khoa học tiến bộ, tôi tin là dăm ba năm nữa, Lượng Tử Lực Học có thể phổ biến, khiến cho người trong cơi đời đều biết, [chuyện ấy] sẽ có ích vô cùng to lớn cho Phật giáo, [v́] những điều đức Phật đă nói trong kinh đều được chứng tỏ. Nhân loại đă có năng lực xử lư hoàn cảnh, muốn hóa giải tai nạn bèn biết dùng phương pháp ǵ; để hóa giải các xung đột, đă có biện pháp. Chỉ cần chúng ta tin tưởng, “tín vi đạo nguyên, công đức mẫu” (tín là nguồn đạo, mẹ công đức), quư vị chẳng tin th́ chẳng có cách nào cả! V́ sao chẳng thể tin? Quư vị chẳng nhận biết điều này, do chẳng nhận biết nên không tin. Khi tôi c̣n trẻ, đối với những điều này chẳng biết tí ǵ, học trong nhà trường nghe giáo viên bảo: “Tôn giáo là mê tín, Phật giáo là đa thần giáo, thứ ǵ cũng lạy, mê tín nhất, mê tín hàng đầu trong các thứ mê tín”. V́ thế, trước nay tôi chưa hề có ư nghĩ tiếp xúc Phật giáo, chẳng có! Chùa miếu đều chẳng đến, thuở trẻ ngoan cố dường ấy. Cũng may là chúng tôi có tâm mong cầu hiểu biết, lúc hai mươi mốt tuổi sanh ḷng mê đắm triết học, trong tâm tôi hết sức ưa thích môn khoa học ấy. Lúc hai mươi sáu tuổi, gặp gỡ giáo sư Phương Đông Mỹ là một vị triết gia đương thời mà trong tâm tôi hết sức ngưỡng mộ, tôi theo học Triết với thầy. Trong phần cuối cùng, thầy giảng triết học trong kinh Phật, tôi cảm thấy hết sức kinh ngạc, thưa: “Phật giáo là tôn giáo, là đa thần giáo. Đa thần giáo là tôn giáo thấp kém, làm sao có triết học cho được?” Thầy bảo: “Anh c̣n trẻ, không biết!” Thầy giảng: “Thích Ca Mâu Ni Phật là triết gia vĩ đại nhất trên thế giới, kinh Phật là đỉnh cao nhất trong nền triết học toàn thế giới. Học Phật là hưởng thụ cao nhất trong đời người”. Tôi theo học môn ấy với thầy, mới sửa đổi quan niệm sai lầm, biết trong ấy có thứ thật tốt đẹp dường ấy, vô cùng khát vọng.

            Thầy bảo tôi: “Hiện thời, trong các chùa miếu chẳng có triết học Phật giáo”, tôi hỏi thầy phải t́m ở nơi đâu? “Trong kinh điển”. V́ sao? Hiện thời, trong chùa miếu chẳng có người học tập nữa. Thầy nói chẳng giống như trong quá khứ. Trong quá khứ, những người xuất gia trong các chùa miếu là bậc đại đức hạnh, đại học vấn! V́ thế, Phật môn thường nói: “Người xuất gia là thầy của đế vương”, chẳng sai tí nào! Thật sự có tư cách làm thầy của đế vương. Đế vương, tướng lănh, đại thần hễ gặp những vấn đề chẳng thể giải quyết bèn thỉnh giáo người xuất gia, người xuất gia thật sự có năng lực chỉ dạy họ. Đáng tiếc là hiện thời họ chẳng học [kinh giáo] nữa. Do vậy, thầy bảo tôi: “Nếu anh muốn học, [hăy học] từ kinh điển”, chỉ cho tôi con đường ấy. Thầy chỉ cho tôi con đường ấy vô cùng chánh xác. Nếu thầy chẳng nói trước, tôi ṃ đến chùa miếu, gặp người xuất gia thỉnh giáo, một câu hỏi là ba điều không biết[1], chắc chắn tôi sẽ ngờ vực lời thầy, [cho là] lời thầy nói chẳng phải là sự thật. Thầy đă dặn ḍ trước: “Người xuất gia chẳng nghiêm túc học tập”. Sau khi đă học th́ phải làm được, đó là Tập. Quư vị học rồi nhưng chẳng làm được, đó là giả, vô dụng! Há chẳng phải là trong Phật giáo có khoa học cao cấp? Chúng tôi đă học Phật nhiều năm ngần ấy, biết Phật giáo không chỉ có khoa học cao cấp, mà c̣n có triết học cao cấp. Khoa học và triết học đều đạt tới đỉnh cao tột bậc. Những phát hiện gần đây nhất trong Lượng Tử Lực Học giống hệt như trong kinh Đại Thừa đă nói.

            Học Phật có lợi ở chỗ nào? Đối với chính ḿnh mà nói th́ là thân tâm khỏe mạnh, thân tâm thanh tịnh; ban cho quư vị điều tốt đẹp ấy, chẳng có phiền năo, chẳng có ưu lự, chẳng có vướng mắc, chẳng có áp lực, trí huệ tăng trưởng, đức hạnh tăng trưởng, vui sướng lắm! V́ vậy, người học Phật pháp hỷ sung măn, trong Đại Kinh thường nói: “Bồ Tát thường sanh tâm hoan hỷ”, ở đây quư vị nói là “rất sung sướng”. V́ thế, thầy bảo tôi: “Học Phật là hưởng thụ cao nhất trong đời người”, tôi đă đạt được. Mỗi ngày đều cảm tạ thầy; nếu thầy chẳng chỉ ra con đường này, suốt cuộc đời này tôi sẽ khổ sở chẳng thể nói nổi, há có hạnh phúc, tự tại dường ấy? Thầy chỉ điểm đường lối chánh xác, bản thân chúng ta phải thật sự làm, biết đó là giả. Kinh Kim Cang dạy: “Phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng”, đối với tất cả những tướng được hiện, chúng ta đều chẳng bận tâm, buông xuống hết! Thật sự chẳng có một niệm toan khống chế, chẳng có mảy may ư niệm chiếm hữu nào! Thuở tại thế, đức Thế Tôn đă nêu tấm gương tốt nhất. Ngài xuất thân là vương tử, quư tộc, xuất thân từ quư tộc. Mười chín tuổi bỏ ngôi vua, rời gia đ́nh đi học đạo, học suốt mười hai năm. Sống cuộc đời của một vị Tăng khổ hạnh, ba y một bát, giữa trưa ăn một bữa, nghỉ dưới cội cây, sống suốt cả đời như vậy, vui sướng khôn sánh! Thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Học Tiểu Thừa thành tựu, thành Chánh Giác, Đại Thừa Bồ Tát thành Chánh Đẳng Chánh Giác. Thuở ấy, Ngài biểu hiện cho chúng ta thấy, nêu gương cho hàng hậu học chúng ta. 

            Trong Phật pháp, để tiến cao hơn th́ phải buông xuống. Thuở ấy, Chương Gia đại sư dạy tôi: “Giống như ṭa cao ốc một trăm tầng, quư vị có thể buông tầng thứ nhất xuống th́ mới có thể tiến lên tầng thứ hai. Có thể buông tầng thứ hai xuống, mới có thể lên tầng thứ ba. Quư vị chẳng chịu buông xuống, chấp trước nơi đó, sẽ vĩnh viễn chẳng thể tiến bộ”. Năm mươi mốt tầng cấp Bồ Tát, [Thập Tín], Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, giống như một ṭa cao ốc gồm năm mươi mốt tầng. Có thể buông Thập Tín xuống, quư vị đạt tới địa vị Thập Trụ. Có thể buông Thập Trụ xuống, quư vị mới có thể đạt đến địa vị Thập Hạnh, bí quyết là buông xuống. V́ sao chẳng buông xuống được? Do chẳng liễu giải chân tướng sự thật! V́ vậy, trước hết bảo quư vị hăy liễu giải chân tướng sự thật. Trí Văn Thù là thấy thấu suốt, hạnh Phổ Hiền là buông xuống. Thấy thấu suốt giúp buông xuống, buông xuống lại giúp thấy thấu suốt, hai điều này giúp nhau thành tựu từ Sơ Phát Tâm cho đến địa vị Như Lai, đem phương pháp thật sự bí mật này truyền cho quư vị! Tôi gặp gỡ Chương Gia đại sư là lần đầu tiên gặp mặt người xuất gia, tôi bèn hướng về lăo nhân gia thỉnh giáo. Tôi thưa: “Tiên sinh Phương Đông Mỹ giới thiệu cho con biết Phật pháp, con biết Phật pháp thù thắng, biết Phật pháp là đại học vấn có thể giải quyết hết thảy vấn đề”. Tôi thỉnh giáo lăo nhân gia: “Có phương pháp tốt đẹp nào khiến cho con có thể khế nhập rất nhanh chóng hay chăng?” Ngài dạy tôi “thấy thấu suốt, buông xuống”, truyền cho tôi ngay hôm đầu tiên. Tôi học suốt mười mấy năm mới thật sự hiểu rơ đạo lư ấy. Sau khi đă hiểu rơ, cảm kích thầy vô tận. Ngài chẳng giấu giếm mảy may nào, giống như đă đem bí mật thành Phật của hàng Bồ Tát truyền cho tôi. Tuy trong kinh Đại Thừa, đức Phật đă thường nói [tới bí quyết ấy], nhưng chúng tôi xem mà chẳng hiểu, đọc phớt qua, chẳng hề lưu ư. Thầy vừa chỉ điểm, cảnh tỉnh, chúng tôi bèn chú ư, phát hiện trong kinh điển Đại Thừa, đâu đâu Phật cũng đề ra, chỉ dạy [điều ấy]. Trong những bộ kinh Bảo Tích, Viên Giác, Lăng Nghiêm được nêu ra ở đây, thảy đều có. Đă thật sự liễu giải, nên đối với huyễn tướng chẳng chấp, chẳng đắc. “Chấp” là chấp tướng. Chẳng c̣n chấp tướng, bèn chẳng c̣n có ư niệm được - mất. Đối với hết thảy sự vật, chẳng có ư niệm khống chế hay chiếm hữu. Đó là “vô đắc”, thật sự thấy thấu suốt.

            “Văn trung thịnh tán đại sĩ chi Quyền Thật nhị đức” (lời văn nồng nhiệt ca ngợi hai đức Quyền và Thật của đại sĩ), Quyền Đức là buông xuống, Thật Đức là thấy thấu suốt. “Đại sĩ” được nói ở đây chính là các vị Bồ Tát tham dự pháp hội này. Ở đây nói tỳ-kheo có tới một vạn hai ngàn người, Bồ Tát vô lượng vô biên, có nhiều vị Bồ Tát từ thế giới phương khác đến. Giai năng thị hiện thị Quyền Đức, thật vô khả đắc thị Thật Đức” (“Đều có thể thị hiện” là Quyền Đức, “thật sự chẳng thể được” là Thật Đức). “Thật vô khả đắc” là trí huệ, “giai năng thị hiện” là phương tiện thiện xảo, nên dùng thân ǵ để độ được, chư Phật Như Lai, Pháp Thân Bồ Tát đều có thể hiện thân, như trong kinh Lăng Nghiêm đă nói: “Tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng” (thuận theo tâm của chúng sanh mà ứng hiện xứng với khả năng hiểu biết của họ). Chư Phật, Bồ Tát hiện thân, xác thực là chẳng hề khởi tâm động niệm, hiện như thế nào? Tự nhiên hiện, thuật ngữ trong Phật pháp là “pháp nhĩ như thị”, tức là “vốn là như vậy”. Nếu hỏi, v́ sao vốn là như vậy? Do cùng một tự tánh! Chỉ rơ vạn sự vạn vật trong toàn thể vũ trụ và chính ḿnh là cùng một Thể. Trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật thường nói: “Mười phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân”, thật vậy, chẳng giả tí nào! Do đó nói: “Vô duyên Đại Từ, đồng thể Đại Bi”. Pháp Thân Bồ Tát biết, nhận thức, khẳng định hết thảy các pháp và ta là một Thể, phàm phu chẳng biết, phân chia Tự và Tha, nên tự tư tự lợi, tổn người lợi ḿnh, gây tạo vô lượng vô biên tội nghiệp. Tuy tội nghiệp là giả, chẳng thật, nhưng nếu kẻ ấy không tỉnh ngộ th́ phải hứng chịu! Hứng chịu rất khổ, giống như mơ thấy ác mộng. Khi kẻ ấy gặp ác mộng, chẳng biết chính ḿnh đang nằm mộng, khổ chẳng thể nói nổi, hễ tỉnh giấc mới biết là một giấc mộng. Chúng sanh luân hồi trong lục đạo là như vậy, chịu khổ, hưởng vui trong lục đạo, ngày nào tỉnh giấc, giác ngộ, lục đạo bèn chẳng c̣n nữa, mới biết là một giấc mộng to lớn. Lời Vĩnh Gia đại sư đă nói là lời thật, chẳng phải là giả. “Hội trung chư đại sĩ giai viên cụ Quyền Thật nhị đức” (Các vị đại sĩ trong hội đều đầy đủ trọn vẹn hai đức Quyền và Thật), viên măn trọn đủ hai đức ấy. “Cố vân: Thử chư Bồ Tát, diệc phục như thị” (V́ thế nói: “Các vị Bồ Tát ấy cũng giống như thế”). Đây là lời tổng kết một đoạn ngắn, [ư nói] các vị Bồ Tát ấy đều có trí huệ và đức hạnh ấy. Chư vị hăy ghi nhớ: Đức hạnh là buông xuống!

            Chúng ta học Phật phải ghi nhớ: Thật sự muốn cầu văng sanh th́ phải tŕ giới, phải khổ hạnh. Trước khi diệt độ, Thích Ca Mâu Ni Phật răn dạy đệ tử, đức Phật chẳng c̣n hiện diện trong thế giới này th́ hăy “lấy khổ làm thầy, lấy giới làm thầy”. Bất luận quư vị học Thiền Tông, học Giáo Hạ, học Hiển, học Mật, học Đại Thừa, học Tiểu Thừa, chỉ cần là học Phật th́ điều này là căn bản, [tức là] “lấy giới làm thầy” là căn bản, “lấy khổ làm thầy” là căn bản. V́ sao chẳng tŕ giới tốt đẹp? Sợ chịu khổ, như vậy là chẳng được rồi! Quư vị thật sự muốn thành tựu, phải nhẫn được điều này, chịu được nỗi khổ kẻ khác chẳng thể chịu, nhẫn được nỗi nhục chẳng thể nhẫn, nay chúng ta gọi [nỗi nhục ấy] là “nhục nhă”, có thể nhẫn được. Thực hiện giới luật từ chỗ nào? Phải bắt đầu bằng Đệ Tử Quy. Đối với Phật giáo hiện thời, chúng tôi đă đến nhiều nơi thuộc các quốc gia, tiếp xúc các vị đồng tu học Phật trong giới Hoa kiều đă nhiều năm, khiến cho chúng tôi nhận thấy hàng xuất gia học Phật chẳng thể hành Sa Di Luật Nghi, hàng tại gia chẳng thể hành Thập Thiện Nghiệp Đạo; do vậy, họ chẳng thể thành tựu. Chẳng phải là họ không nỗ lực, tôi gặp những người tham Thiền, có người học Giáo, có người học Mật, v́ sao họ chẳng thể thành tựu? Đừng nói là so với cổ nhân, ngay cả so với người thuộc thế hệ trước mà đă thua kém rồi! Rốt cuộc, nguyên nhân ở chỗ nào? V́ sao người trước kia có thể làm được, nhưng người hiện thời chẳng làm được? Thâm nhập quan sát mới bèn phát hiện, người thuộc thế hệ chúng ta đă sơ sót trong giáo dục vun bồi căn bản! Chẳng thể nào chê trách người trong thế hệ này được! Trong kinh Vô Lượng Thọ, Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói một lời công bằng: “Tiên nhân bất thiện (vô tri), bất thức đạo đức, vô hữu ngữ giả, thù vô quái dă” (người đời trước chẳng lành (không hiểu biết), chẳng biết đạo đức, chẳng có ai nói với họ, trọn chẳng đáng trách). Dường như là nói với người trong thế hệ này, v́ cha mẹ họ chẳng biết, sanh trong thời hoạn nạn mà! Ông bà của kẻ ấy cũng chẳng biết, dẫu là ông bà cố của họ, gần như thuộc vào lớp tuổi tôi, vẫn chưa hoàn toàn biết. Vẫn phải là đời trước của tôi, tức là kể đến đời cha của tôi th́ mới biết. Họ sống vào thời đầu Dân Quốc, tuy văn hóa truyền thống Trung Quốc đă bị coi nhẹ, nhưng vẫn c̣n ảnh hưởng. Đến thế hệ chúng tôi, hăy c̣n chịu ảnh hưởng đôi chút, chứ người trẻ hơn tôi đôi ba tuổi đă chẳng biết nữa! Tôi có một người em trai nhỏ hơn tôi sáu tuổi, căn bản là anh ta chẳng biết!  Làm sao quư vị có thể trách móc người hiện thời? Cho nên chẳng thể trách móc họ, hăy khéo dạy bảo họ học tập bổ sung những môn học ấy, học bù! Lúc bé chẳng học, nay đă giác ngộ, nếu muốn thật sự thực hiện, nhất định phải học bổ sung các môn học ấy; v́ nếu chẳng có những môn học ấy, quư vị chẳng có căn bản, siêng khổ nỗ lực cả đời, nhưng chẳng thể thành tựu! Giống như cây cối, hoa cỏ, chẳng có rễ, quư vị cắm hoa trong b́nh, vun quén th́ nó cũng có thể nở hoa, nh́n cũng đẹp lắm, nhưng chẳng thể kết trái. Chớ nên không hiểu đạo lư này!

            Đối với chuyện giáo dục con cái, cổ nhân Trung Quốc hết sức nghiêm ngặt, hết sức coi trọng. Gia tộc quư vị trong tương lai có thể hưng vượng hay không, có thể phát đạt hay không, hoàn toàn cậy vào mai sau có nhân tài xuất hiện hay không? V́ thế, rất coi trọng chuyện dạy dỗ con cái. Bắt đầu dạy từ khi nào? Từ lúc có mang bèn bắt đầu dạy, gọi là “thai giáo”. Trẻ nhỏ vừa sanh ra, biết nh́n, biết nghe, quư vị ngàn muôn lần chớ nên nghĩ rằng nó chẳng hiểu chuyện, [nếu nghĩ như vậy], quư vị đă sai mất rồi! Nó rất thông minh, cái ǵ cũng đều biết, chỉ là chưa thể nói. V́ thế, Đệ Tử Quy chẳng phải là để dạy trẻ nhỏ học, hoặc dạy chúng nó đọc, mà là ǵ? Cha mẹ phải thật thà thực hiện Đệ Tử Quy, làm cho trẻ thơ xem. “Dạy con từ thuở c̣n thơ”, khiến cho đứa bé ấy, tức là trước khi nó tṛn ba tuổi, từ mới sanh ra cho đến ba tuổi là một ngàn ngày, một ngàn ngày ấy gọi là “vun bồi căn bản giáo dục”. Trong một ngàn ngày ấy, người mẹ rất nhọc nhằn, thời thời khắc khắc chăm sóc nó. Nói đúng ra là nó xem thấy, nghe thấy, tiếp xúc toàn là những điều tốt đẹp, quyết định chớ để nó tiếp xúc, hoặc trông thấy những điều xấu xa. V́ vậy, cha mẹ đă thực hiện Đệ Tử Quy trước mặt con, trẻ thơ đă được học, mỗi ngày nó đều xem và nghe. V́ thế, ngạn ngữ cổ Trung Quốc có câu: “Tam tuế khán bát thập”, [nghĩa là] trẻ thơ cho đến ba tuổi đă được vun bồi cội rễ th́ đến tám mươi tuổi cũng chẳng bị biến đổi, rễ sâu cội vững mà! Do đó, giáo dục luân lư và giáo dục đạo đức đều do cha mẹ thực hiện cho trẻ thấy, dụng tâm như thế đó! Trẻ cũng biết, cũng làm được, nhưng v́ sao phải làm như vậy, nó chẳng biết. Đến sáu, bảy tuổi đi học, dần dần hiểu chuyện, thầy tiếp tục nêu gương cho nó thấy; v́ thế, thầy là “thân hành, ngôn giáo”. Trẻ nhỏ dần dần hiểu chuyện, bèn giảng cho nó nghe v́ sao phải hiếu thuận cha mẹ? V́ sao em phải tôn kính anh, anh phải bảo vệ em? Giảng những đạo lư gần gũi, dễ hiểu cho nó nghe, dần dần nó sẽ hiểu, sự giáo dục này rất trọng yếu. Bởi lẽ đó, trẻ nhỏ Trung Quốc [thuở ấy] năm, sáu tuổi cũng rất biết lễ phép, giống như một người lớn thu nhỏ.

            Hiện thời chẳng c̣n nữa, ngày nay giáo dục trong gia đ́nh chẳng c̣n nữa. Sự giáo dục trong nhà trường chẳng có môn này, giáo dục xă hội càng chẳng cần nhắc đến nữa! Ngay cả giáo dục tôn giáo cũng chẳng nói đến. Hỏng rồi! V́ thế, toàn thể xă hội hiện thời động loạn là do nguyên nhân nào? “Thất giáo” (chẳng dạy), hai chữ mà thôi! Giáo dục truyền thống bị vứt bỏ, giáo dục tôn giáo bỏ luôn, xă hội biến thành nông nỗi này! Tháng Sáu năm nay, chúng tôi cùng đi với đoàn phỏng vấn tôn giáo Mă Lai đến thăm Phạm Đề Cương (Vatican), gặp gỡ Giáo Hoàng của Thiên Chúa Giáo, trao đổi với đại chủ giáo (tổng giám mục) của họ. Họ cũng ư thức điều này, cũng biết vấn đề này rất nghiêm trọng. Do vậy, trong bản báo cáo, tôi đặc biệt nêu lên sự giáo dục tôn giáo. V́ trên cả thế giới hiện thời, các nhân sĩ trong giới học thuật, các thanh thiếu niên học sinh đều nghĩ tôn giáo là mê tín. Người tin theo tôn giáo mỗi năm một ít hơn. Phật giáo chúng ta chẳng có thống kê, chứ Thiên Chúa Giáo có thống kê, hằng năm người chịu rửa tội ít hơn. Chúng tôi cũng đă từng gặp rất nhiều lần, có rất nhiều người chất vấn, nghi ngờ tôn giáo có cống hiến ǵ cho xă hội? “Chẳng có cống hiến, chẳng có lợi ích, đương nhiên sẽ bị đào thải”, họ suy nghĩ như vậy đó!    

            Trong quá khứ, tôn giáo có cống hiến cho xă hội, v́ sao? Tôn giáo dạy dỗ, đặc biệt là Phật giáo. Phật giáo vào thời cổ, tự viện am đường là trường học. Ḥa Thượng Thủ Tọa phân ṭa giảng kinh, đó là giáo học. Một ngôi chùa có vài vị Ḥa Thượng Thủ Tọa, quư vị thích học bộ kinh điển nào, có thể vào pḥng học của vị đó, thật sự có thể học được thứ này, thứ nọ, họ dạy học mà! V́ thế, chúng tôi cực lực đề xướng tôn giáo phải quay về giáo học. Hiện thời nhằm đúng lúc gia đ́nh, nhà trường và xă hội đều chẳng dạy luân lư đạo đức nữa, chúng ta có thể trích lục những kinh luận liên quan tới luân lư, đạo đức, nhân quả trong các kinh điển tôn giáo, bản thân chúng ta nghiêm túc học tập, phổ biến nhằm dạy bảo đại chúng trong xă hội, bù đắp giáo dục xă hội trong hiện tại đă thiếu mất ba thứ ấy (luân lư, đạo đức, nhân quả) th́ tôn giáo sẽ có cống hiến vô cùng to lớn đối với xă hội. Người ta chẳng c̣n có thể nói “tôn giáo chẳng có cống hiến ǵ đối với xă hội”, v́ chúng ta có những thứ tốt đẹp này! Phải thật sự làm, phải hiểu, phải biết giá trị. Bản thân chúng ta tu học, chính ḿnh đạt được lợi ích, tôi thường nói là lợi ích cá nhân là khỏe mạnh, sống lâu. Tôi chẳng có đạo tràng, nếu có đạo tràng, đạo tràng ấy ḥa hài, sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh thuận lợi, chắc chắn là như thế! Tại gia cư sĩ, gia đ́nh hạnh phúc, sự nghiệp thuận lợi, đại chúng trong hoàn cảnh cư trụ đều có thể ḥa hài, điều này tốt lắm! Thật sự có sự tốt đẹp này, thật sự có cống hiến. V́ thế, trong sự nhận thức của chúng tôi về tôn giáo, các tôn giáo đều tốt đẹp. [Tôn giáo có] những ảnh hưởng tiêu cực là do trong tôn giáo hiện thời, những người học tập tôn giáo chẳng nghiêm túc nỗ lực, cũng bị thế tục nhuốm dơ, tức là [bị cuốn hút] vào danh vọng, lợi dưỡng, tham, sân, si, mạn, hỏng rồi, toàn thể tôn giáo bị hủy hoại. Do vậy, chúng ta phải nhận thức rơ ràng: Bản thân tôn giáo chẳng có vấn đề, mà là tín đồ tôn giáo có vấn đề, họ chẳng nghiêm túc học tập. Nếu họ nghiêm túc học tập th́ tín đồ tôn giáo ai nấy đều là người tốt, ai nấy đều có cống hiến rất lớn đối với xă hội. Chúng ta chớ nên không hiểu rơ ràng, rành rẽ điều này.

            Lại xem đoạn kinh văn tiếp theo. Đoạn kinh văn này từ “thông chư Pháp Tánh, đạt chúng sanh tướng” (thông hiểu các pháp tánh, thấu đạt tướng của chúng sanh) cho đến đoạn kết thúc “thiện lập phương tiện, hiển thị Tam Thừa” (khéo lập phương tiện, hiển thị Tam Thừa). Đoạn này nhằm dạy chúng ta siêu t́nh ly kiến, triệt để buông xuống. Do kinh Vô Lượng Thọ thông với kinh Hoa Nghiêm, mục tiêu chung trong sự học tập là dạy chúng ta minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, nên mới có kinh văn như vậy. Trong kinh Tiểu Thừa, chẳng thấy kinh văn như thế. “Thông chư pháp tánh”, “chư” () là chư pháp, tánh của chư pháp là một tánh, giống như Hiền Thủ quốc sư đă nói “tự tánh thanh tịnh viên minh thể”, trong triết học gọi điều này là “bản thể”. Hiện thời, triết học và khoa học trên cả thế giới đều chẳng nói đến mức độ này, mà nói “từ một Thể khởi lên hai tác dụng”. V́ vậy, khoa học cũng đúng là khó có, thật sự chẳng dễ dàng, chỉ là họ chưa t́m được căn nguyên. Căn nguyên là tự tánh, ư thức của chúng ta duyên không tới, dùng máy móc tinh vi cũng chẳng nh́n thấy, v́ nó chẳng phải là hiện tượng vật chất, mà cũng chẳng phải là hiện tượng tinh thần, máy móc tinh vi cỡ nào cũng vô dụng đối với nó! Chỉ có chứng mới biết, thật sự triệt để buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, quư vị bèn chứng đắc; đó là căn nguyên của vạn sự vạn pháp trong vũ trụ, [đó là] Pháp Tánh. Thiền Tông gọi “thông chư pháp tánh” là minh tâm kiến tánh. “Đạt chúng sanh tướng”: Phần trên (tức “thông chư pháp tánh”) là Thật Trí, phần dưới (“đạt chúng sanh tướng”) là Quyền Trí. “Đạt chúng sanh tướng” là Nhất Thiết Chủng Trí. Vạn sự vạn pháp trong vũ trụ v́ sao có thể phát sanh? Phát sanh như thế nào? V́ sao có thể biến hóa? Quư vị biết toàn bộ những chuyện ấy th́ là “đạt chúng sanh tướng”.

            Chúng ta xem cụ Hoàng Niệm Tổ giải thích: “Pháp Tánh, hựu danh Thật Tướng, hựu danh Chân Như” (Pháp Tánh c̣n gọi là Thật Tướng, c̣n gọi là Chân Như), chữ “hựu danh” (又名: lại c̣n gọi) áp dụng cho tất cả [những danh từ] sau đó, tức là “hựu danh Pháp Giới, hựu danh Niết Bàn, hựu danh Thật Tế đẳng” (c̣n gọi là Pháp Giới, c̣n gọi là Niết Bàn, c̣n gọi là Thật Tế v.v…), phía sau hăy c̣n [nhiều danh từ] nữa. Trong kinh, đức Phật nói tới Pháp Tánh, bèn nói các danh tự của nó nhiều tới khoảng chừng mấy chục tên, tổng cộng chừng sáu mươi, bảy mươi danh từ. V́ sao đức Phật nói ra lắm từ ngữ như vậy? Đây là phương tiện thiện xảo trong giáo học, nhằm dạy chúng ta chớ nên chấp trước tướng danh tự. Tướng danh tự chẳng thật, hiểu ư nghĩa của chúng là được rồi, giúp chúng ta phá chấp trước. Hễ chấp trước th́ sai mất rồi, chớ nên chấp trước! Trong Khởi Tín Luận, Mă Minh Bồ Tát đă dạy chúng ta thái độ học tập, Ngài nói rất hay: Nghe kinh cần phải có tâm thái ǵ để nghe? Đầu tiên là “ly ngôn thuyết tướng”, lời lẽ của người ấy (người giảng pháp) nhiều hơn hoặc ít hơn mấy câu, nói sâu hay nói cạn, chẳng quan trọng! Chớ nên chấp trước tướng ấy. Điều thứ hai đừng chấp trước danh tự tướng, tức là “ly danh tự tướng”, [“danh tự”] là danh từ, thuật ngữ, như [các từ ngữ] “Pháp Tánh, Thật Tướng” được nói đến ở đây. “Chân Như, pháp giới, Niết Bàn” đều là các danh từ thuật ngữ trong Phật học, chớ nên chấp trước, hăy hiểu ư nghĩa của chúng, đừng nên chấp trước. Điều thứ ba là “ly tâm duyên tướng”, quư vị đừng suy nghĩ những ư nghĩa trong kinh. V́ sao? Quư vị suy nghĩ tức là vọng tưởng, đó chẳng phải là ư nghĩa của Phật, mà là ư nghĩa của chính quư vị. Kinh Phật có ư nghĩa hay không? Thưa thật thà cùng quư vị, kinh Phật chẳng có ư nghĩa ǵ! Chẳng có ư nghĩa mới là lưu lộ từ tự tánh. Có ư nghĩa là phàm phu, lưu xuất từ trong A Lại Da của quư vị, đó là phàm phu. Bởi lẽ đó, kinh Phật chẳng có ư nghĩa, phải hiểu điều này!

            Quư vị suy nghĩ như thế nào th́ đó là ư nghĩa của chính quư vị, chẳng phải là ư nghĩa của Phật. Kệ Khai Kinh có câu: “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, Như Lai chẳng có nghĩa chân thật, chẳng có ư, quư vị giải thích bằng cách nào? Đến khi nào quư vị có thể thật sự hiểu nghĩa chân thật? Khi tâm thanh tịnh hiện tiền, chiếu kiến, chẳng phải là “tưởng kiến” (sự thấy biết do suy tưởng), tâm b́nh đẳng hiện tiền, tâm thanh tịnh hiện tiền, quư vị sẽ có thể đạt được vài phần nghĩa chân thật của Như Lai. A La Hán, Bích Chi Phật đă chứng đắc v́ các Ngài chẳng chấp trước, đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian chẳng chấp trước. Bồ Tát cao hơn một bậc, Bồ Tát là Chánh Đẳng Chánh Giác, Bồ Tát sử dụng tâm b́nh đẳng. Không chỉ chẳng có chấp trước, mà phân biệt cũng chẳng có. Phân biệt đoạn hết, tức là đă đoạn Trần Sa Hoặc, đoạn hết chấp trước là đoạn hết Kiến Tư Hoặc, nên Bồ Tát có thể hiểu được nghĩa chân thật nhiều phần, tức là Ngài thấu hiểu hơn một nửa, trọn chẳng phải là dùng tưởng, hễ tưởng tức là trật rồi! Tưởng là ǵ? Rơi vào thức thứ sáu, tức Ư Thức. V́ thế, hiện thời học kinh giáo gặp khó khăn ở chỗ nào? Khó khăn ở ngay chỗ này, suy tưởng nhiều quá! Vừa nh́n, bèn nghĩ cái này có ư nghĩa ǵ, cái kia có ư nghĩa ǵ, hoàn toàn là ư tứ của chính ḿnh. Đây là chuyện rất khó khăn. V́ vậy, chúng ta học Giáo, nếu không gặp được một vị thầy thật sự tốt đẹp, lúc vỡ ḷng bèn chỉ điểm chúng ta,chúng ta sẽ đi lầm chỗ, biến thành ǵ? Biến thành đạt được lắm tri thức, tức là thường thức trong kinh Phật, đều do chúng ta suy tưởng, biến thành tri thức, mà quư vị cứ ngỡ chúng là trí huệ; chúng ta đă biến trí huệ thành tri thức, hao hụt quá lớn! Trí huệ có thể giải quyết vấn đề, tri thức chẳng thể!

            Sau khi Đệ Nhị Thế Chiến kết thúc, thế giới này chưa hề thái b́nh. Kể từ thập niên 70, mỗi năm Liên Hiệp Quốc triệu tập hội nghị ḥa b́nh quốc tế, mời mọc các chuyên gia, học giả thảo luận [cùng một] chủ đề suốt ba mươi năm chẳng thay đổi: “Làm thế nào để tiêu diệt xung đột, xúc tiến xă hội an định, thế giới ḥa b́nh?” Đă mở hội nghị hơn ba mươi năm với chủ đề ấy. Trước sau, tôi tham gia mười lần, tôi mới liễu giải trạng huống sự thật. Có hiệu quả hay không? Chẳng có hiệu quả! Quư vị thấy tần số xung đột xă hội mỗi năm một cao hơn, vấn đề ngày càng nghiêm trọng hơn. Chẳng phải là họ không quan tâm chú ư, họ thật sự quan tâm chú ư, v́ sao chẳng thể giải quyết vấn đề? Chúng tôi tham dự bèn liễu giải, tri thức đấy mà! Các học giả và chuyên gia đều có học thức vô cùng phong phú, nhưng chẳng phải là trí huệ! Tri thức giải quyết vấn đề là cục hạn, đau đầu bèn chữa đầu, đau chân bèn chữa chân, chẳng thể trị dứt tận gốc, để lại một đống lớn hậu quả! Trí huệ chẳng như vậy! Tại Liên Hiệp Quốc, chúng tôi cống hiến rất đơn giản, rất trực tiếp báo cáo cùng mọi người, vấn đề phát sanh ở chỗ nào? Phát sanh từ giáo dục, con người do dạy dỗ mà thành tốt đẹp, cũng do dạy dỗ mà trở thành xấu xa, tùy thuộc cách dạy của quư vị như thế nào? Trong cả thế giới hiện thời, ai dạy? Chánh phủ các nước thiếu sót, sơ sót trong giáo dục nhân văn, thiếu sót giáo dục cách làm người, chỉ biết đến khoa học kỹ thuật. Phương diện ấy đột nhiên phát triển mạnh mẽ, nhưng chẳng biết làm người! Thiếu sót trong giáo dục luân lư, đạo đức, nhân quả, cho nên mới dẫn đến xă hội động loạn, mới đem lại tai hại trên địa cầu, vấn đề ở chỗ này. Dùng phương pháp ǵ để đối trị? Hăy nhanh chóng t́m lại giáo dục luân lư, đạo đức, nhân quả, bèn có thể giải quyết vấn đề, đặc biệt là tôn giáo. Tôn giáo có thể cống hiến rất tốt trong vấn đề này, v́ trong kinh điển của mỗi tôn giáo lớn trên thế giới đều có tài liệu giáo huấn rất phong phú về luân lư, đạo đức, nhân quả. Nếu có thể triệu tập những người ấy, [tức là] những nhà tôn giáo thật sự nhiệt tâm, có thể thật sự hy sinh dâng hiến, bỏ ḿnh v́ người, có được chừng năm sáu mươi người như vậy, Liên Hiệp Quốc sắp xếp để họ mỗi ngày lợi dụng [truyền h́nh] vệ tinh hoặc Internet, những công cụ ấy rất tốt, để giảng học cho mọi người trên toàn bộ thế giới. Tôi tin là trong một năm thiên hạ sẽ thái b́nh. Tôi báo cáo như vậy rất nhiều lượt, thính giả cũng rất vui vẻ, nhưng từ đầu tới cuối chẳng thực hiện, đó là “nghị nhưng chẳng quyết, quyết nhưng chẳng làm!” Hiện thời, tôi không tham gia hội nghị ấy nữa, tuổi đă cao rồi, để cho người trẻ tuổi tiếp tục làm. Như vậy là dẫu vấn đề khó khăn đến mấy, Phật pháp đều có phương pháp giải quyết.

      Trước tiên, nêu ra mấy danh từ Pháp Tánh, sau đấy lại giảng Tánh là ǵ? [Tánh là] Thể, bản thể, nó có thể sanh, có thể hiện. Tuy nó chẳng phải là tinh thần, mà cũng chẳng phải là vật chất, nó có thể hiện tinh thần và vật chất, nó là bản thể của tinh thần và vật chất. Triết học nói vạn hữu trong vũ trụ có bản thể, nhưng măi cho đến hiện thời vẫn chẳng có kết luận nhất định. Nói rất nhiều thứ, vẫn chẳng thể khiến cho người ta tâm phục, khẩu phục. Trong Phật pháp dùng chữ Tánh này để nói, có rất nhiều tên gọi khác biệt, “Thể dă” (Tánh là Thể). “Nhất thiết pháp chi tự thể, danh vi Pháp Tánh” (tự thể của hết thảy các pháp gọi là Pháp Tánh). Tổ tiên xa xưa của người Trung Quốc cũng nói, tổ tiên gọi nó là “bổn tánh”, quư vị thấy sách vở xưa đă nói: “Bổn tánh bổn thiện” (bổn tánh vốn lành). Tam Tự Kinh là sách để dạy vỡ ḷng cho trẻ nhỏ, quư vị nghĩ xem [tổ tiên] đă dạy trẻ nhỏ câu đầu tiên: “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện” (con người thoạt đầu tánh vốn lành). Bổn tánh vốn thiện, thiện ở đây chẳng phải là thiện trong “thiện - ác”. Thiện trong “thiện - ác” có mức độ rất thấp, thiện ở đây là “viên măn cụ túc” (trọn đủ viên măn) như nhà Phật đă nói, có ư nghĩa này. Đây là một tán thán từ, là một h́nh dung từ, nhằm tán thán nó viên măn, chẳng có mảy may khiếm khuyết nào, trọn đủ! Trong Phật pháp đă nói, tức là trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă nói rất hay: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”, Như Lai là tự tánh. Trong tự tánh của hết thảy chúng sanh có trí huệ và đức năng viên măn (nay chúng ta nói là “năng lực”), có tướng hảo viên măn. Trí huệ và đức năng giống hệt như A Di Đà Phật, c̣n tướng hảo giống như thế giới Cực Lạc được nói trong kinh này. Trong tự tánh của hết thảy chúng sanh thảy đều có, là b́nh đẳng. V́ vậy, sự b́nh đẳng được nói trong nhà Phật là b́nh đẳng thật sự, chúng sanh và Phật b́nh đẳng. Tự thể của hết thảy các pháp được gọi là Pháp Tánh.

            “Như Khởi Tín Luận Nghĩa Kư viết” (như Khởi Tín Luận Nghĩa Kư nói). Nghĩa Kư là sách chú giải Khởi Tín Luận, do pháp sư Pháp Tạng ghi chép, tôi chẳng nhớ rơ lắm, tôi đă đọc sách này. Trong ấy có nói: “Pháp Tánh giả, minh thử chân thể phổ biến nghĩa, thông dữ nhất thiết pháp vi tánh” (Pháp Tánh, hiểu rơ ư nghĩa phổ biến này của chân thể, là tánh của khắp hết thảy các pháp). Hai câu này viết rất hay, “minh” () là quư vị thấu hiểu, đă biết rơ. “Chân thể phổ biến nghĩa”: Toàn thể vũ trụ, kể cả hư không pháp giới, đều do nó (Pháp Tánh) biến hiện. V́ thế, hư không chẳng thật, “có thể biến, có thể hiện” mới là thật, c̣n “cái được biến, cái được hiện” là giả, chẳng thật. “Thông ư nhất thiết pháp vi tánh”: Thể của hết thảy vạn sự vạn vật trong pháp giới hư không giới là Pháp Tánh. Nói cách khác, ĺa khỏi Pháp Tánh, sẽ chẳng có một pháp nào để có thể được, pháp là tướng. Cổ nhân có tỷ dụ rất hay, như vàng chế thành đồ vật, món nào cũng đều là vàng. Chúng ta dùng hoàng kim, hoàng kim là Thể, tỷ dụ Pháp Tánh, dùng nó làm thành các thứ vật dụng, quá nhiều vật dụng, chẳng có cùng tận! Năm xưa tôi ở Mỹ, có một đồng tu là tại gia cư sĩ làm đồ châu báu. Ông ta chẳng phải làm đồ thật, mà làm đồ giả, tức là đồ trang sức bằng vàng, là đồ mạ vàng. Chẳng phải là vàng ṛng, mà là vàng mạ. Có một hôm, ông ta dẫn tôi đến thăm pḥng triển lăm, chính ông ta có công xưởng, chẳng phải là buôn bán nhỏ, mà là sản xuất để phân phối. V́ thế, có rất nhiều người đến đánh giá hàng hóa, đều trước hết đến thăm các mặt hàng triển lăm, chọn lựa kiểu mẫu tại đó. Tôi đến xem, hơn hai vạn món, lóng lánh chói mắt, đẹp đẽ khôn xiết! Tôi nghĩ kinh đă dạy: “Dùng vàng làm vật dụng, món nào cũng đều là vàng”, hoàn toàn có thể thấy được tại nơi đó, toàn là vàng. Ông ta làm đồ trang sức giá rẻ, món đắt nhất không hơn hai mươi đồng Mỹ kim, món rẻ chỉ có mấy đồng, năm sáu đồng, nên người b́nh phàm rất ưa thích, bị mất chẳng tiếc! Các món trang sức giả ấy rất nổi tiếng ở ngoại quốc, được người ta hết sức hoan nghênh, đồ thật bị mất sẽ đau ḷng, đồ giả bị mất chẳng xót ruột. Hơn nữa, nh́n bề ngoài c̣n đẹp mắt hơn đồ thật. Chúng ta dùng những thứ này để làm tỷ dụ cũng rất thích hợp. Vàng là tánh, hết thảy các pháp là các món vật. Rời khỏi vàng, chẳng có đồ vật, tất cả hết thảy các món kim khí đều làm bằng vàng. Điều này nêu rơ mối quan hệ giữa Tánh và Tướng. Tướng do Tánh biến hiện, [Tánh] có thể sanh, có thể hiện. C̣n như nó biến hóa, đó là Thức. Do tự tánh hiện, nó hiện, nó sanh, nó hiện, đó là thế giới ǵ? Cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai. Do vậy, trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm chẳng có biến, người trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm là vô lượng thọ, chẳng bị già yếu, chẳng thay đổi! Trong cơi Thật Báo, cây cối, hoa quả xanh tươi măi măi, lá cây chẳng úa vàng, thật sự vĩnh viễn chẳng rụng. V́ sao? Nó chẳng biến, có thể sanh, có thể hiện, chẳng biến đổi. V́ sao? Nó chẳng có A Lại Da.

            Chư vị phải hiểu: Biến th́ trong mười pháp giới, biến là do A Lại Da đang biến. Chẳng có A Lại Da, đương nhiên nó sẽ không thể biến. Do đó, chúng ta gọi thế giới ấy là Nhất Chân, con người vĩnh viễn thanh xuân, chẳng biến thành già yếu, mà cũng chẳng có sanh tử, đó là cảnh giới trong cơi Thật Báo. Những vị Bồ Tát trong cơi Thật Báo tiến lên dần dần, chắc chắn sẽ có ngày tiến tới viên măn, viên măn là chứng đắc quả vị Diệu Giác. Từ Đẳng Giác chứng đắc Diệu Giác. Khi chứng đắc Diệu Giác, sẽ chẳng thấy cơi Thật Báo Trang Nghiêm, [cơi ấy] vẫn là một giấc mộng, đă tỉnh giấc rồi! Đến nơi đâu? Đến Thường Tịch Quang, Thường Tịch Quang là Pháp Tánh, trở về tự tánh. Quư vị thấy chúng ta từ tự tánh biến hiện, đến cuối cùng mục tiêu chung cực là trở về tự tánh, trở về tự tánh mới gọi là “chứng đắc quả vị Diệu Giác”. Diệu Giác hiện h́nh tượng giống như một bầu tịch quang, một bầu quang minh, trong Phật pháp gọi điều ấy là Đại Quang Minh Tạng. Trong ấy chẳng có tinh thần, chẳng có vật chất, hiện tượng ǵ cũng chẳng có. Do chúng ta sử dụng cái tâm ư thức, tưởng tượng, tư duy, nên vĩnh viễn chẳng đạt được. Ắt phải triệt để buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, kể cả tập khí cũng chẳng có, quư vị mới thấy được. Đó là Diệu Giác, tức Phật quả viên măn rốt ráo. Tuy vị ấy thứ ǵ cũng đều chẳng phải, nhưng thứ ǵ cũng đều hiện. Chúng sanh có cảm, Ngài bèn hiện. Pháp Thân Bồ Tát c̣n mang theo tập khí, nên trụ trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Cơi Thật Báo Trang Nghiêm do tập khí vô thỉ vô minh biến hiện. Tập khí và vô minh khác nhau! Vô minh có thể biến, tập khí chẳng thể biến; do vậy, họ (người trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm) đă đoạn vô minh, nhưng hăy c̣n tập khí vô minh. Cơi Thật Báo do đâu mà có, chúng ta cũng hiểu rơ ràng, minh bạch. Do vậy, chúng ta hăy khéo niệm Phật, thật sự có thể buông xuống, sẽ có thể sanh về cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Nếu sanh về Thường Tịch Quang, sẽ rất khó khăn, thật sự khó khăn, hết sức khó khăn! Người niệm Phật chúng ta có thể đạt đến cơi Thật Báo.

            “Hựu, Duy Thức Thuật Kư viết: Tánh giả, Thể dă. Nhất thiết pháp thể, cố danh Pháp Tánh” (Lại nữa, sách Duy Thức Thuật Kư giảng: “Tánh là Thể. Do là Thể của hết thảy các pháp, nên gọi là Pháp Tánh”). Điều này có ư nghĩa giống như đă giảng trong phần trên, Duy Thức Thuật Kư là tác phẩm của Khuy Cơ đại sư, Ngài là tổ sư của Pháp Tướng Tông, Ngài cũng nói rơ mối quan hệ giữa Tánh và Tướng. Lại xem tiếp: “Hựu Đại Thừa Nghĩa Chương nhất, viết” (Lại nữa, sách Đại Thừa Nghĩa Chương quyển một viết), “nhất” là quyển thứ nhất. Trong ấy, nói: “Pháp chi thể tánh, cố vân Pháp Tánh” (là thể tánh của các pháp, nên gọi là Pháp Tánh). Đó là những điều được nói trong các kinh luận. Sau đó, cụ Niệm Tổ tổng hợp lại để giải thích: “Cố tri Pháp Tánh năi vạn pháp chi Thể” (Do vậy biết, Pháp Tánh là Thể của vạn pháp), chúng ta phải nhận rơ điều này. “Tại nhiễm, tại tịnh, tại hữu t́nh số, tại vô t́nh số, kỳ tánh vô hữu cải biến, cố danh Pháp Tánh” (Trong nhiễm hay tịnh, trong các pháp hữu t́nh hay vô t́nh, tánh ấy chẳng thay đổi, nên gọi là Pháp Tánh). Đặc biệt là trong mười pháp giới, nó biến hóa rất nhiều, chẳng cùng tận. Trong Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, Hiền Thủ quốc sư gọi điều này là “xuất sanh vô tận”. Sách Hoàn Nguyên Quán giảng hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần đều có ba thứ công năng, các công năng ấy thù thắng khôn sánh:

            Thứ nhất là “trọn khắp pháp giới”. Bất luận là tâm pháp hay sắc pháp, sắc pháp là vật chất, tâm pháp là tinh thần. Trong tự tánh, tinh thần c̣n được gọi là “kiến, văn, giác, tri” (thấy, nghe, hay, biết), v́ nó chẳng có phân biệt. Trong cơi Thật Báo cũng gọi là “kiến, văn, giác, tri”, trong mười pháp giới, chúng được gọi là Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Thọ là cảm nhận, Tưởng là ư niệm, Hành là chẳng trụ, niệm trước diệt, niệm sau sanh, niệm này tiếp nối niệm kia, Thức là Thể của nó. Nói thật ra, thức ấy là Pháp Tánh, trọn chẳng tách ĺa Lư Thể. Vật chất và tinh thần đồng thời phát sanh, vĩnh viễn chẳng tách rời, một Thể mà!

            Nói theo lư luận, tinh thần có trước, vật chất có sau. Trong A Lại Da, quư vị thấy Nghiệp Tướng, Nghiệp Tướng là năng lượng, là hiện tượng dao động; Chuyển Tướng là Thọ, Tưởng, Hành, Thức, nếu nói theo A Lại Da Thức, nó là Thọ, Tưởng, Hành, Thức; Cảnh Giới Tướng là vật chất. Kinh Phật thường gộp chung [các tướng ấy] thành Ngũ Uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sắc là vật chất, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là hiện tượng tâm lư, chúng vĩnh viễn ở cùng một chỗ, chẳng thể tách rời, chẳng tách rời được! Hiện tượng vật chất là hiện tượng có dao động. Mỗi loại trong bốn loại Thọ, Tưởng, Hành, Thức đều có hiện tượng dao động. Sự dao động ấy bất luận là hữu ư hay vô ư, hữu tâm hay vô tâm, hễ động bèn trọn khắp thế giới, đấy là đặc tánh thứ nhất. Nó nhanh chóng, tốc độ lẹ làng. Nếu chúng ta hiểu chân tướng sự thật này, quư vị bèn rơ ràng, minh bạch. Ư niệm của quư vị vừa động, bất luận là hữu ư hay vô ư, chẳng cần biết là hữu tâm hay vô tâm, một thiện niệm của quư vị vừa động bèn trọn khắp pháp giới. Người đạt được tâm thanh tịnh trong khắp pháp giới hư không giới đều có thể nhận được tin tức của quư vị. Quư vị động một ác niệm, có chỗ nào lừa người khác được chăng? Chẳng có! Chẳng thể nào! Quư vị gạt không được! Bởi lẽ, Ngũ Uẩn của chính quư vị là đài phát sóng, mà cũng là đài thu sóng, có thể tiếp nhận tin tức trong khắp pháp giới hư không giới, có thể tiếp nhận, có thể phát ra, chẳng có chuyện ǵ có thể gạt gẫm người khác được! Những người ấy là Pháp Thân Bồ Tát, hoặc chư Phật Như Lai, chẳng có cách nào giấu diếm các Ngài được, các Ngài hoàn toàn biết.  

            Thấp hơn là Quyền Giáo Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác cũng đều biết, nhưng các Ngài biết những ǵ thô hơn một chút, chứ những thứ vi tế tột bậc các Ngài chẳng biết. Đức Phật nói Bát Địa Bồ Tát biết những ư niệm vi tế tột bậc. Chúng ta nghĩ đến Bát Địa, Cửu Địa, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác, đối với những người thuộc năm địa vị ấy, dẫu vi tế đến mấy đều biết. Nếu chúng ta thật sự hiểu rơ, thật sự thông hiểu, chúng ta khởi tâm động niệm đều chẳng dám có ác niệm. Người đông ngần ấy đều thu được, [chúng ta] phát ra ác niệm lẽ đâu chẳng biết xấu hổ? Tự nhiên sanh ra một thứ sức mạnh ước thúc, đó là chân tướng, chân tướng sự thật đấy nhé. Đặc tánh thứ nhất là tốc độ của nó quá nhanh, nhanh hơn vô tuyến điện, nhanh hơn tốc độ ánh sáng! Ánh nắng chiếu đến địa cầu c̣n phải mất tám phút, niệm ấy vừa mới khởi lên đă trọn khắp pháp giới. Quư vị thấy tốc độ của Pháp Tánh nhanh quá! Mảy may chướng ngại đều chẳng có!

            Đặc tánh thứ hai là thiên biến vạn hóa, “xuất sanh vô tận”. Đối với cách nói trong đoạn trước, chúng ta học tập chẳng hoài nghi, nhưng đối với điều thứ hai là “xuất sanh vô tận”, ta bèn hoài nghi. V́ sao có thể xuất sanh vô tận? Sức mạnh nào khiến cho nó có năng lực to tát ngần ấy? Tôi cũng thường canh cánh [nỗi nghi này] bên ḷng, rất lâu mà vẫn chưa thể giải quyết. Khi giảng kinh Hoa Nghiêm, có một hôm chợt nghĩ đến lúc bé chơi kính vạn hoa. Quư vị thấy có người tặng tôi kính vạn hoa. Vật này rất đơn giản, bên trong là ba miếng thủy tinh, bỏ vào giữa đó mấy mảnh vụn có màu sắc khác nhau. Quư vị xoay chuyển nó, xoay suốt một ngày, chẳng ngừng xoay, chẳng nh́n thấy hai mẫu hoa giống nhau. Quư vị thấy ngay cả vật như vậy mà c̣n biến hóa vô cùng, xuất sanh vô tận. Tôi nghĩ công năng của tự tánh c̣n lớn hơn rất nhiều. Được chứng minh từ chuyện này, chẳng c̣n hoài nghi nữa, kể cả kính vạn hoa cũng xuất sanh vô tận. Tiến sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật Bản làm thí nghiệm với nước, rất có giá trị khoa học, tôi đă đến thăm pḥng thí nghiệm của ông ta hai lần, nghe ông ta báo cáo, chúng tôi đă biến thành bạn bè thân thiết. Ông ta cho biết: Quan sát mô thức kết cấu của nước kết tinh bằng kính hiển vi, mười mấy năm qua, ông ta chẳng phát hiện có hai mô thức tương đồng, chưa hề thấy [hai mô thức] hoàn toàn giống nhau! Ông ta nêu ra vấn đề này hỏi tôi: “Do nguyên nhân ǵ?” Tôi nói: Chẳng thể có hai mô thức giống nhau là do nguyên nhân nào? Ư niệm của chúng ta biến hóa trong từng sát-na. Dẫu chỉ có một ḿnh ta xem, ta đối với nước ấy tâm yêu thích tràn trề, nó sẽ có mô thức [kết tinh] rất đẹp. Ái tâm trong niệm trước của ta khác ái tâm trong niệm thứ hai, chắc chắn có sai biệt; do vậy, nó chẳng thể nào là một tướng. Có [trường hợp các mô thức] tương tự, nhưng chẳng thể nào hoàn toàn giống nhau. Ông ta nghiền ngẫm đạo lư ấy. V́ sao? Nó sanh từ tâm tưởng. Chứng tỏ nước có thể thấy, nghe, hiểu ư nghĩ của con người. Tôi bảo ông ta: - Không chỉ là nước, nước là vật chất, tất cả hiện tượng vật chất thảy đều có thể thấy, nghe, hiểu ư nghĩ của con người. Chúng ta ngồi trong căn pḥng này, bàn, ghế có thể thấy, nghe, hiểu ư nghĩ của ta. Trên là trần nhà, dưới là sàn nhà, đều hiểu ư nghĩ của ta, chúng cũng có thể thấy, có thể nghe. Đó là ǵ? Đấy là bản năng (năng lực sẵn có) của vật chất. Đă là vật chất th́ nó bèn có hiện tượng tinh thần, tức là có Thọ, Tưởng, Hành, Thức; nói cách khác, Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức vĩnh viễn chẳng tách rời.

            Nếu chúng ta thật sự nhận biết điều này, sau đấy, quư vị lại nghĩ: Trong kinh giáo, đức Phật đă dạy chúng ta: “Tướng do tâm sanh, cảnh chuyển theo tâm”. Chúng ta nghe hai câu ấy, trong tâm cảm thấy dễ chịu. Thân thể của chúng ta là tướng, tướng mạo bên ngoài là tướng, ngũ tạng lục phủ bên trong cũng là tướng. Nếu tâm ta là chánh, nếu tâm là thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, thân thể sẽ vĩnh viễn chẳng ngă bệnh. Tuổi tác mỗi năm một lớn hơn, nhưng chẳng già yếu! Tướng do tâm sanh, tâm ta chẳng già, ư niệm chẳng già, người làm sao có thể già cho được? Già bằng cách nào? Hằng ngày nghĩ tới già: “Ta đă già rồi, già khằng rồi!” Người ấy sẽ thật sự già. Người già nghĩ tới bệnh tật, cho nên bệnh ǵ cũng có. Hễ bệnh bèn nghĩ đến cái chết, làm sao bất tử cho được? Sanh từ tâm tưởng mà! Quư vị có thể thật sự hoàn toàn gạt sạch những tư tưởng tiêu cực sẽ tương ứng với tự tánh. Cảnh chuyển theo tâm, “cảnh” là hoàn cảnh cư trụ của chúng ta. Chúng ta ở trong cơi này, mỗi ngày học tập đạo thánh hiền, hằng ngày học Phật pháp, đó là “vô thượng thậm thâm vi diệu pháp”, nơi ấy sẽ chẳng có tai nạn, mà cũng chẳng có hạn hán, lũ lụt, động đất, băo lốc, cảnh chuyển theo tâm mà! Nếu một phần trăm dân cư Cát Long Ba (Kuala Lumpur), tức là trong một trăm người mà có một người ư niệm thuần chánh, bảo đảm nơi ấy chẳng có tai nạn, chừng một phần trăm người [như vậy] là được rồi! Đạo lư ǵ thế? Cổ nhân Trung Quốc nói: “Tà chẳng thắng chánh”. Chín mươi chín người tạo tội nghiệt, một người là chánh tri, chánh kiến, chánh tâm, chánh hạnh, bèn có thể gia hộ họ. Trong kinh, đức Phật đă nói như thế, hiện thời các nhà Lượng Tử Lực Học cũng đă chứng tỏ. V́ thế, hiện thời, đối với giáo pháp Đại Thừa, đối với kinh Vô Lượng Thọ, đối với các bộ đại kinh như Hoa Nghiêm, tín tâm của chúng ta trọn đủ mười phần, chẳng có chút hoài nghi nào. Chúng ta y giáo phụng hành, lẽ nào chẳng thành tựu? Hôm nay thời gian đă hết rồi, chúng ta học tập tới chỗ này.

 

Tập 114

 

            Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm ba mươi bốn, hàng thứ tư từ dưới đếm lên, đọc từ câu “Gia Tường Pháp Hoa Sớ”:

            “Gia Tường Pháp Hoa Sớ ngũ viết: ‘Pháp Tánh tức thị Thật Tướng, Tam Thừa đắc đạo, mạc bất do chi’. Hựu Chỉ Quán nhất viết: Pháp Tánh danh vi Thật Tướng, thượng phi Nhị Thừa cảnh giới, hà huống phàm phu” (Bộ Pháp Hoa Sớ của ngài Gia Tường đă viết: “Pháp Tánh chính là Thật Tướng, Tam Thừa đắc đạo không ai chẳng do nó”. Lại nữa, sách Chỉ Quán giảng: “Pháp Tánh có tên là Thật Tướng, c̣n chẳng phải là cảnh giới của Nhị Thừa, huống ǵ phàm phu”). Đoạn này vẫn nhằm giải thích “thông chư pháp tánh, đạt chúng sanh tướng”, hai câu này là “thông đạt tánh - tướng”. Trong phần trước, chúng ta thấy lăo cư sĩ Niệm Tổ trích dẫn sách Duy Thức Thuật Kư của Khuy Cơ đại sư và sách Đại Thừa Nghĩa Chương nói về Pháp Tánh và Pháp Tướng. Hôm nay, chúng ta xem tiếp, thấy trong Pháp Hoa Kinh Sớ cũng là ư nghĩa này. Pháp Tánh là Thật Tướng, chúng ta đă học trong phần trước. “Tam Thừa đắc đạo, mạc bất do chi” (Tam Thừa đắc đạo, không ai chẳng do nó). Tam Thừa là Thanh Văn, Duyên Giác, và Bồ Tát, thông thường c̣n gọi là Đại Thừa, Trung Thừa, và Tiểu Thừa. Tu hành chứng quả đều là minh tâm kiến tánh; trên thực tế, chỉ có Bồ Tát tu hành mới là kiến tánh, kiến tánh bèn thành Phật. Trong Hoa Nghiêm, họ c̣n được gọi là Pháp Thân Bồ Tát. Kiến tánh là chứng đắc Pháp Thân; trong phần trước, các đồng học chúng ta đều học tập cả rồi. Bởi lẽ, chứng đắc Pháp Thân sẽ thật sự hiểu được, khẳng định “hết thảy vạn vật trong khắp pháp giới hư không giới và chính ḿnh là một Thể”. Đó là kiến tánh, là chứng đắc Pháp Thân. Chuyện này quả thật chẳng dễ dàng, từ vô thỉ kiếp tới nay, chúng ta đă dưỡng thành một thói quen, “ta là ta, quư vị là quư vị, người khác là người khác”, làm sao là một Thể cho được? Há có lẽ ấy? Dẫu thế nào cũng chẳng thể thừa nhận, chúng ta ngỡ đó là chân tướng sự thật, nhưng Phật, Bồ Tát bảo chúng ta đă hoàn toàn sai lầm mất rồi! Đúng là một Thể. Phải như thế nào th́ mới có thể chứng đắc? Đức Phật dạy: Quư vị chẳng c̣n chấp trước nữa. Chẳng c̣n chấp trước thân này là ta, thân kia là quư vị, thân nọ là của người khác. Chẳng có sự chấp trước ấy, thật sự đoạn chấp trước sẽ là ǵ? Đó là phá Thân Kiến.

            Chúng ta minh tâm kiến tánh, đạt tới giai đoạn thứ nhất, đă có thành quả, chẳng c̣n nhận biết cái thân này là chính ḿnh, thân là ǵ? Thân là cái của ta có (ngă sở hữu), quyết định chẳng phải là chính ḿnh. Giống như quần áo, quần áo là cái ta có, chẳng phải là chính ḿnh, chúng ta khẳng định điều này. Tiến hơn bước nữa, Phật mong chúng ta hăy khẳng định, thân chẳng phải là chính ḿnh, thân là cái ta có. Thân này là cái ta có, c̣n thân của người khác th́ sao? Cũng là cái ta có. Cây cối, hoa, cỏ là cái ta có; núi, sông, đại địa cũng là cái ta có. Đó là cái ta có, chẳng phải là ta. Có thể khẳng định và nhận thức như vậy th́ mới có thể chứng quả A La Hán, Phật pháp nói người ấy đă chứng đắc Chánh Giác. Tiểu Thừa trong Tam Thừa đắc đạo có cách nh́n đối với vũ trụ và nhân sinh khác chúng ta, Bồ Tát càng cao hơn họ. Bồ Tát không chỉ chẳng chấp trước, mà phân biệt cũng chẳng có. Do vậy, Tiểu Thừa A La Hán đắc tâm thanh tịnh. Chỉ cần chấp trước thân này là ta, thân kia là của quư vị, thân nọ là của người khác, tâm thanh tịnh của chúng ta chẳng thể khôi phục! Trong kinh đă dạy chúng ta tiêu chuẩn tu hành là “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, chúng ta chẳng đạt được tâm thanh tịnh tức là tu hành chẳng có công phu, chẳng được thọ dụng. Tu hành chẳng có công phu, chẳng được thọ dụng, phiền phức ở chỗ nào? Phiền phức là đời đời kiếp kiếp vẫn phải tiếp tục luân hồi. Thật sự đạt đến cảnh giới A La Hán, biết thân chẳng phải là ta, đoạn hết Kiến Tư phiền năo, vượt thoát lục đạo luân hồi. Lục đạo luân hồi chẳng thấy nữa, giống như nằm mộng. Tỉnh mộng, chẳng thấy lục đạo luân hồi nữa! Sau khi chẳng thấy, cảnh giới đó là cảnh giới A La Hán, bốn thánh pháp giới xuất hiện. Bốn thánh pháp giới vẫn chưa phải là thật, vẫn là cảnh mộng, v́ họ có Trần Sa phiền năo, có Vô Minh phiền năo, ắt phải đoạn Trần Sa phiền năo. Trần Sa phiền năo là ǵ? Phân biệt. Vô lượng vô biên phân biệt ví như bụi cát, vọng niệm phân biệt nhiều như bụi cát, [nên gọi là Trần Sa phiền năo]. Buông phân biệt xuống, chẳng c̣n phân biệt nữa, phân biệt chẳng có ǵ tốt đẹp! V́ sao? Nó là hư vọng, chẳng thật! Kinh dạy: “Phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng”, “hết thảy các pháp vô sở hữu, rốt ráo không, chẳng thể được”, kinh Đại Bát Nhă dạy như thế. Như vậy th́ mới có thể chứng đắc cảnh giới Chánh Đẳng Chánh Giác của Bồ Tát, tức là “b́nh đẳng” trong tựa đề kinh, tâm b́nh đẳng hiện tiền, trong hết thảy cảnh giới, quư vị chẳng c̣n phân biệt nữa! Phật và chúng sanh b́nh đẳng, kinh Đại Thừa thường nói “sanh, Phật b́nh đẳng”, [nghĩa là] chúng sanh và Phật b́nh đẳng. Tánh - tướng như nhau, Pháp Tánh và Pháp Tướng là một, chẳng hai. Pháp Tánh có thể sanh, có thể hiện, Pháp Tướng là cái được sanh, cái được hiện, chúng là một, chẳng hai! Lại cao hơn một bậc, không chỉ phân biệt, chấp trước chẳng c̣n, mà khởi tâm động niệm cũng chẳng có. Chẳng động tâm, không động niệm, trở về tự tánh, đó gọi là thành Phật, là giác, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, đấy là Phật. Thanh Văn, Duyên Giác, và Phật được gọi chung là Tam Thừa. Tam Thừa đắc đạo có quan hệ mật thiết với Pháp Tánh, với Thật Tướng. A La Hán chứng đắc ít phần, Bồ Tát chứng đắc nhiều phần, Phật chứng đắc viên măn.

            Kế đó, “Chỉ Quán nhất viết” (sách Chỉ Quán cuốn một nói), đây là bộ Ma Ha Chỉ Quán của ngài Thiên Thai, trong quyển thứ nhất có nói: “Pháp Tánh danh vi Thật Tướng, thượng phi Nhị Thừa cảnh giới, hà huống phàm phu” (Pháp Tánh có tên là Thật Tướng, c̣n chẳng phải là cảnh giới của Nhị Thừa, huống hồ phàm phu), nói nghiêm ngặt hơn bộ Pháp Hoa Sớ của ngài Gia Tường. Pháp Hoa Sớ nói theo nghĩa rộng, sách Chỉ Quán giảng theo nghĩa hẹp, chỉ chấp nhận sự chứng đắc của Như Lai mới là Pháp Tánh, [sự chứng đắc của] A La Hán và Bồ Tát đều chẳng kể tới, nhất định là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Do trong Tam Thừa nói A La Hán là tiểu ngộ, nên gọi Tiểu Thừa; Bồ Tát là đại ngộ, xưng là Đại Thừa, nhưng chưa triệt ngộ. Triệt ngộ mới thành Phật, mới minh tâm kiến tánh. Nói thông thường, các vị A La Hán, Bích Chi Phật, Quyền Giáo Bồ Tát đều chưa kiến tánh, các Ngài chỉ là tiếp cận, từng bước tiến gần bờ mé. Hai cách nói này đều hợp lư, chúng ta hiểu rơ là được rồi. Minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, Tiểu Thừa và Đại Thừa c̣n chưa làm được, huống ǵ phàm phu?

            “Hoa Nghiêm Tông vị Chân Như hữu bất biến dữ tùy duyên nhị nghĩa” (Tông Hoa Nghiêm bảo Chân Như có hai nghĩa là bất biến và tùy duyên), Chân Như là Pháp Tánh, Chân Như là Thật Tướng, quả thật là có hai ư nghĩa bất biến và tùy duyên. “Dĩ tùy duyên nghĩa, biến tạo nhất thiết chư pháp” (do nghĩa tùy duyên, tạo khắp hết thảy các pháp), tùy duyên mới có thể tạo khắp hết thảy các pháp. “Cố xưng Chân Như vi Pháp Tánh” (v́ thế, gọi Chân Như là Pháp Tánh), đó là tùy duyên. Giống như hoàng kim có thể thuận theo ư nghĩ của chúng ta, chúng ta chế nó thành đủ mọi món trang sức, thuận theo ư nghĩ của con người, nó tùy duyên, nó có biến đổi hay không? Nó bất biến! Bất luận quư vị tạo thành món ǵ, bản chất của nó vẫn là vàng, bất biến mà tùy duyên, tùy duyên nhưng vẫn bất biến; do vậy, nó là thật. Tướng th́ sao? Tướng là giả, v́ tướng có thể biến đổi bất cứ lúc nào. Chúng ta thích h́nh dạng nào, bèn có thể chế lại [món đồ theo h́nh dạng mới ấy]. V́ vậy, gọi Chân Như là Pháp Tánh. “Hựu dĩ bất biến cố, tuy tùy duyên biến tạo nhiễm tịnh, hữu t́nh dữ vô t́nh chủng chủng vạn pháp, nhi Chân Như bất cải, bất biến” (Lại do bất biến nên tùy duyên tạo khắp nhiễm và tịnh, hữu t́nh và vô t́nh, muôn loại pháp, nhưng Chân Như chẳng đổi, chẳng biến). Giống như chúng tôi vừa dùng vàng làm tỷ dụ, vàng là Pháp Tánh, là Chân Như, chế nó thành nhẫn, hay thành ṿng đeo cổ, thành ṿng đeo tay, cho đến làm thành cái đĩa, hay chế thành chén trà, bất luận làm thành vật ǵ, vàng vẫn chẳng thay đổi, cho nên nó có thể tùy duyên. Tùy duyên, nói thật ra là tùy cái duyên nào? Tùy thuận ư niệm của chúng sanh, mà cũng là tùy thuận vọng tưởng của chúng sanh, khởi vô lượng vô biên biến hóa. Tuy khởi biến hóa, nhưng bản chất của nó bất biến, phải hiểu đạo lư này! Quư vị thấy trên thế giới này có bao nhiêu động vật, con người là một loại động vật, thực vật lại có bao nhiêu loài, khoáng vật lại có bao nhiêu thứ? Chẳng thể kể xiết! Đấy là Chân Như tùy duyên, nhưng Thể của Chân Như bất biến. Thể của Chân Như là ǵ? Trong phần trước đă nói rất nhiều! Thật Tướng, pháp giới, Niết Bàn, Thật Tế, chỉ nêu ra mấy danh từ ấy. Trong kinh Phật có hơn mấy chục loại danh từ, đều nhằm nói về cùng một chuyện. Trong phần trước, tôi đă thưa bày cùng quư vị v́ sao Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chuyện này bèn nói ra lắm danh tướng như thế? Nói nhiều danh từ thuật ngữ như vậy nhằm dụng ư dạy chúng ta chớ nên chấp trước tướng danh tự. Danh là giả danh, quư vị hiểu ư nghĩa của nó là được rồi, nói như thế nào đều được! Chúng là giả danh, nhằm giúp chúng ta ĺa tướng danh tự, chẳng chấp trước tướng danh tự, như vậy là đúng. Pháp Tánh chẳng có lúc nào không tồn tại, không chỗ nào chẳng tồn tại. Nó là bản thể của hết thảy vạn pháp, chẳng phải là hiện tượng tinh thần, mà cũng chẳng phải hiện tượng vật chất. Tuy tồn tại, ở ngay trước mặt chúng ta, nhưng mắt chúng ta chẳng nh́n thấy, tai cũng chẳng nghe thấy, sáu căn chẳng tiếp xúc tới. Nó thật sự có, nhưng sáu căn đều chẳng tiếp xúc đến, nên gọi là Không.

            Rất nhiều đồng học niệm Bát Nhă Tâm Kinh thuộc làu, kinh đă dạy rơ ràng: “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc. Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc”. Sắc và Không là một, chẳng hai. Sắc - Không bất nhị. Chúng ta thấy rất khó hiểu, [đức Phật] nói những câu chân thật, đây là nói về mối quan hệ giữa Pháp Tánh và vật chất. Pháp Tánh và tinh thần có quan hệ ra sao? Phần sau Tâm Kinh lại nói: “Thọ, Tưởng, Hành, Thức, cũng giống như thế”. Thọ, Tưởng, Hành, Thức là tinh thần. Mối quan hệ giữa tinh thần và tự tánh giống hệt như mối quan hệ giữa vật chất và tự tánh, cho thấy vật chất và tinh thần đều do Pháp Tánh biến hiện. Pháp Tánh biến hiện thành vật chất, biến hiện thành tinh thần, sáu căn của chúng ta có thể tiếp xúc. Tiếp xúc được th́ quư vị phải biết: [Cái mà ta] tiếp xúc được chính là Pháp Tướng, c̣n Pháp Tánh th́ sao? Pháp Tánh chẳng ĺa khỏi Pháp Tướng. Giống như vàng làm thành đồ trang sức, ta đem vàng làm thành một cái xuyến, vàng ở chỗ nào? Quư vị cầm lấy cái xuyến là [cầm được] vàng. Quư vị chấp trước cái xuyến, cái xuyến là Pháp Tướng, Thể của nó, tức bản chất của nó là Pháp Tánh. V́ lẽ đó, thấy tướng là thấy tánh. V́ sao chúng ta thấy tướng mà chẳng thấy tánh? Chúng ta thấy tướng bèn chấp tướng, chấp vào tướng mất rồi. Tánh ở ngay trước mặt mà mê, chẳng thấy tánh. Tướng có, tánh không, “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng lại như vậy”. Chúng ta làm thế nào để thấy cái ṿng bằng vàng là Không th́ quư vị kiến tánh, phải có công phu ấy. Kẻ b́nh phàm chẳng thấy điều này, kẻ b́nh phàm chấp trước điều ấy là thật. [Chấp trước] “nó đúng là một cái xuyến”, chúng ta chẳng thấy nó là Không. Ai có thể thấy? Pháp Thân Bồ Tát thấy. Thưa cùng chư vị, A La Hán vẫn chưa thấy, A La Hán biết, nhưng chẳng thấy; Bồ Tát cũng biết, nhưng vẫn chưa thấy; Pháp Thân Bồ Tát thấy được, “bản thể của nó chính là Không, trọn chẳng thể được”, đúng như kinh Bát Nhă đă nói: “Phàm những ǵ có tướng, đều là hư vọng”, Pháp Thân Bồ Tát thật sự thấy!

            Các nhà Lượng Tử Lực Học hiện thời đă thấy, họ thấy hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần là ǵ? Là huyễn tướng do vô lượng vô số ư niệm tích lũy liên tục sanh ra! Tất cả hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần đều là như vậy, chẳng thật! V́ thế, kinh Bát Nhă đă dạy: “Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai” (nếu thấy các tướng chẳng phải là tướng, liền thấy Như Lai), thấy Như Lai là kiến tánh. Quư vị thấy Pháp Tánh; từ Pháp Tướng, quư vị thấy được Pháp Tánh. Câu này rất khó hiểu, chẳng phải là kiến thức thông thường, chẳng thuộc vào kinh nghiệm của chúng ta. Chẳng hạn như thứ chúng tôi đang cầm trên tay là ǵ? Đây là một quyển sách, chẳng sai, chúng ta đă thấy tướng. Người kiến tánh sẽ nói ǵ? Đó chẳng phải một quyển sách, chẳng có sách, mà là mấy chục trang giấy xếp lại. Họ thấy ǵ? Mấy chục trang giấy, chẳng phải một quyển sách, mấy chục trang giấy đó thôi! Thấy thứ này là mấy chục trang giấy xếp cùng một chỗ, cao minh hơn cách nh́n “đây là một quyển sách” nhiều lắm. Quư vị hiểu rơ đạo lư này, chúng ta thấy một người là một thân thể; nhưng người khác sẽ thấy người ấy chẳng phải là thân thể, mà là một đống lớn gồm mấy trăm triệu, mấy ngàn triệu, mấy vạn triệu tế bào nguyên tử tụ tập cùng một chỗ! Người ấy nói chẳng sai! Chúng ta thấy đây là căn nhà, nhưng người xây dựng nhà nh́n nó sẽ chẳng thấy căn nhà, mà thấy trong ấy có bao nhiêu xi-măng, có bao nhiêu cốt thép, có bao nhiêu viên gạch, bao nhiêu miếng ngói, sắp xếp như thế nào, há có căn nhà? Đức Phật thấy khác với chúng ta. Các nhà khoa học nh́n một căn nhà, sẽ thấy căn nhà do cả đống hạt cơ bản hợp thành, họ chỉ thấy hạt cơ bản. Các nhà Lượng Tử Lực Học càng sắc sảo hơn, hạt cơ bản vẫn c̣n quá to, vẫn c̣n có thể chia tách, chia đến mức nhỏ nhất chẳng c̣n chia được nữa, bèn gọi là “lượng tử”. Căn nhà này là ǵ? Là lượng tử chất chứa, chẳng thấy cái nhà, đó gọi là “từ tướng mà thấy tánh”.

            Quư vị chấp tướng, tướng bất b́nh đẳng. Quư vị thấy tánh, tánh là b́nh đẳng. Nói theo cách hiện thời, bất luận động vật, thực vật, khoáng vật, núi, sông, đại địa, toàn là do lượng tử hợp thành. V́ sao có những thứ kết hợp thành chất rắn? Trong hiện tượng vật chất; cũng có những thứ kết hợp thành chất lỏng lan chảy giống như nước tuôn chảy. Có những thứ biến thành chất hơi, không khí cũng do lượng tử kết hợp thành. Lượng tử xuất hiện như thế nào? Do dao động sanh ra, vô cùng yếu ớt, lại c̣n hết sức nhanh chóng, nên kết hợp thành những thứ ấy. Tần suất dao động khác nhau, tần suất chậm sẽ biến thành chất rắn, tần suất nhanh hơn một chút sẽ biến thành chất lỏng, mau hơn nữa sẽ biến thành chất hơi, không khí. Do tần suất khác nhau, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đủ mọi thứ sai biệt. Trên thực tế, tất cả hết thảy hiện tượng đều có thể quy về lượng tử, thứ cơ bản là lượng tử, có thể quy vào đó. Lượng tử có thể quy vào năng lượng, v́ lượng tử vẫn là vật chất, nên có thể quy vào năng lượng. Điều này có thể giải thích lời đức Phật đă dạy trong kinh: “Bất biến tùy duyên, tùy duyên bất biến”, v́ tùy duyên th́ mới có thể biến hiện y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới.

            V́ bất biến, nhưng tùy duyên, nên biến thành nhiễm hay tịnh, hữu t́nh hay vô t́nh đủ mọi muôn pháp, nhưng tánh chất của nó là vĩnh hằng bất biến. Tánh là Pháp Tánh, pháp là đủ mọi muôn pháp. Tánh của đủ mọi muôn pháp là một tánh, cho nên đồng thể, chẳng sai biệt, có cùng một tự tánh. Vạn sự vạn vật đều do một tự tánh biến ra. Thế giới Cực Lạc là do tự tánh biến. Thế giới Hoa Tạng do tự tánh biến. Hai mươi tám tầng trời do tự tánh biến. Ngạ quỷ, địa ngục A Tỳ cũng do tự tánh biến. Quốc độ thanh tịnh trang nghiêm do tự tánh biến. Xă hội động loạn, khắp nơi có những vùng đất nẩy sanh tai nạn, cũng là do tự tánh biến. Rời khỏi tự tánh th́ thứ ǵ cũng chẳng có, đó gọi là “biết tổng tướng của các pháp”, A La Hán hiểu được. V́ sao nó có thể thiên biến vạn hóa nhiều dường ấy? Đó gọi là “biết biệt tướng của pháp”. A La Hán chẳng biết biệt tướng của các pháp, nhưng Bồ Tát biết, danh từ Phật học gọi [sự thấy biết đó] là Đạo Chủng Trí, vạn sự vạn vật được h́nh thành do đạo lư nào. Chủng () là chủng loại, ngàn muôn phần sai khác. V́ đạo lư nào mà có thể biến thành t́nh trạng như vậy? Đối với loại trí huệ ấy A La Hán chẳng biết, nhưng Bồ Tát biết, nên Bồ Tát cao hơn A La Hán một bậc. A La Hán chỉ biết tổng tướng, chẳng biết biệt tướng. Bồ Tát biết tổng tướng, mà cũng biết biệt tướng, nhưng chưa đạt đến rốt ráo, chẳng triệt để. Đến lúc thành Phật Như Lai mới là rốt ráo viên măn, gọi là chứng đắc Nhất Thiết Chủng Trí.

      Tiếp đó, sách nêu một tỷ dụ, tỷ dụ này cũng thường được nhắc tới trong kinh. Chúng ta vừa mới dùng vàng và các món vật bằng vàng để làm tỷ dụ, đó là tỷ dụ thường được kinh Phật và cổ đại đức nói tới. Ở đây, dùng nước để tỷ dụ, sánh ví nước như Pháp Tánh, sóng được ví như Pháp Tướng. Nước chuyển động bèn dậy sóng. Nước là tĩnh, sóng là động. Nước có thể chiếu, giống như một tấm gương có thể soi cảnh giới bên ngoài. Sóng chẳng thể chiếu, sóng đă đánh mất tác dụng soi chiếu ấy. V́ thế, sánh ví Pháp Tánh như nước, sánh ví Pháp Tướng như sóng, “nhi bất biến thất thủy chi tánh” (mà tánh của nước chẳng biến đổi, bị mất đi), tánh của nước chính là tánh ướt. “Pháp Tánh Chân Như, thuần thiện vô nhiễm”. Thiện ở đây chẳng phải là thiện trong thiện - ác, tịnh trong chữ “thuần tịnh” chẳng là tịnh trong tịnh - nhiễm, thuần thiện vô nhiễm là tịnh. “Duy dĩ duyên hữu nhiễm tịnh, nhi sở biến chi pháp hữu nhiễm tịnh chi biệt” (chỉ v́ duyên có nhiễm hay tịnh, mà pháp được biến bèn có nhiễm hay tịnh sai khác). Duyên có nhiễm hay tịnh, nhưng tánh chẳng có nhiễm hay tịnh. Trong lục đạo, duyên có thiện hay ác, tánh chẳng có thiện hay ác, chớ nên không biết điều này. Trong tự tánh, hễ chư vị nắm vững một nguyên tắc bèn dễ dàng hiểu rơ. Trong tự tánh chẳng có đối lập, v́ nó là một Thể, nó là viên dung, chẳng có đối lập. Quư vị thấy chân và vọng, chẳng phải là đă đối lập rồi ư? Trong tự tánh chẳng có chân hay vọng, trong tự tánh chẳng có nhiễm hay tịnh, trong tự tánh chẳng có thiện hay ác, trong tự tánh chẳng có sanh hay diệt. Sanh diệt là tương đối, trong tự tánh chẳng t́m được tương đối. Trong tự tánh chẳng có xa hay gần, xa hay gần là một cặp [đối lập]. Chẳng có xa hay gần, bèn chẳng có không gian. Trong tự tánh chẳng có trước, sau. Chẳng có trước sau, bèn chẳng có thời gian. Do vậy, trong tự tánh chẳng t́m được tương đối. Hễ có tương đối, sẽ chẳng phải là tự tánh, mà là Pháp Tướng. Trong Pháp Tướng có tương đối, trong Pháp Tánh chẳng có. Chúng ta làm như thế nào để chẳng t́m được tương đối trong Pháp Tướng th́ quư vị kiến tánh. Phải làm như thế nào mới có thể thoát ĺa tương đối? Tương đối là đối lập. [Để đạt đến] chẳng có đối lập th́ đức Phật đă dạy chúng ta: Hăy buông khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước xuống, bèn chẳng có đối lập nữa. “Chẳng có” tức là đă kiến tánh. Tánh ở chỗ nào? Tất cả Pháp Tướng chẳng có một pháp nào chẳng phải là [Pháp Tánh], pháp nào cũng đều là, pháp nào cũng đều b́nh đẳng, pháp nào cũng đều viên dung.

            Phàm phu thành Phật, nói theo lư luận là ngay trong một sát-na, chúng ta thật sự có năng lực ấy, buông hết khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước xuống, phàm phu bèn thành Phật. Có người như vậy hay không? Có! Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, lúc Ngài ba mươi tuổi, Ngài ở dưới cội Bồ Đề buông hết những ǵ đă học trong mười hai năm xuống, cũng có nghĩa là khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước đều cùng buông xuống, bèn thành Phật. Ngài biểu diễn cho chúng ta thấy thành Phật đơn giản như thế đó! Hễ buông xuống bèn kiến tánh, hễ kiến tánh bèn “không ǵ chẳng biết, không ǵ chẳng thể”. V́ sao? V́ quư vị đă trọn đủ “có thể sanh, có thể hiện, có thể biến”, vạn sự vạn vật là sở sanh, sở hiện, sở biến (cái được sanh, cái được hiện, cái được biến). Đă nắm bắt được cội nguồn, vạn sự vạn vật trong khắp pháp giới hư không giới quư vị đều hiểu rơ toàn bộ, chúng do tự tánh biến, chẳng đến từ bên ngoài. Ở Trung Quốc cũng có một tấm gương rơ rệt. Đời Đường, Thiền Tông Lục Tổ Huệ Năng đại sư giống như Thích Ca Mâu Ni Phật, đă biểu diễn cho chúng ta, tức là Ngài ngay lập tức buông khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước xuống, đó gọi là “đốn xả”, chẳng phải là xả dần dần từng thứ một, mà là buông xuống ngay một lúc, nên gọi là “đốn xả”. Đốn xả nên đốn ngộ và đốn chứng, lập tức chứng đắc. V́ thế, ḥa thượng Ngũ Tổ Nhẫn lập tức truyền y bát cho Ngài. Khi đó, Huệ Năng đại sư hai mươi bốn tuổi, thành Phật! Người nào chứng minh cho Ngài? Ḥa Thượng Ngũ Tổ Nhẫn đă chứng minh Lục Tổ đă thành Phật. Thành Phật là buông xuống, triệt để buông xuống, hiểu rơ triệt để vũ trụ, nhân sinh, vạn sự, vạn vật. Trong lịch sử Trung Quốc, có không ít những nhân vật như vậy. Từ hai ngàn năm qua, tối thiểu có hơn hai ngàn người đạt tới cảnh giới này. Trong tu học, buông xuống nhanh chóng nhất th́ có thể nói Huệ Năng đại sư là bậc nhất, người khác buông xuống cũng phải mất một khoảng thời gian, một hai năm, hoặc đôi ba năm, hoặc dăm sáu năm, mười mấy năm, những trường hợp như thế rất nhiều. Nhanh chóng như Huệ Năng đại sư có lẽ chỉ có ḿnh Ngài, chẳng t́m được người thứ hai. Có thể so sánh với Ngài, theo kinh điển ghi chép, Thích Ca Mâu Ni Phật buông xuống rất nhanh chóng.

            V́ sao chúng ta không buông xuống được? Chúng ta coi những huyễn tướng và giả tướng đều là thật, chẳng biết chúng là giả. V́ thế, dấy lên tham luyến đối với chúng, sanh khởi tâm t́nh yêu mến, đó là chuyện phiền phức! Dẫu đọc kinh giáo đă nhiều, đức Phật đă vô số lần nhắc nhở chúng ta, chúng ta biết những thứ ấy (huyễn tướng, giả tướng) là giả, nhưng vẫn y như cũ chẳng thể buông xuống được! T́nh chấp quá sâu, tập khí phiền năo quá nặng, nhưng cần phải biết: Không buông xuống, quyết định sẽ chẳng thể thành công. Không buông xuống, nhất định phải luân hồi trong lục đạo. Nghĩ đến chuyện này, chúng ta bèn chẳng dám không buông xuống. V́ sao? Không buông xuống sẽ rất khổ, quư vị nói xem: Làm người khổ quá đi thôi! Đời này làm người, đời sau có thể làm thân người nữa hay không? Chẳng dám chắc! V́ sao? Đức Phật đă nói rơ ràng, nếu muốn đời sau được làm thân người, chúng ta tu Thập Thiện Nghiệp Đạo tối thiểu phải đạt đến trung phẩm. Cũng tức là chúng ta tu Thập Thiện Nghiệp Đạo giống như được thầy chấm điểm trong nhà trường, tối thiểu chúng ta phải đạt được bảy mươi, tám mươi điểm, đời sau mới ḥng được mang thân người! Nếu quư vị có thể đạt được từ chín mươi điểm trở lên, hoặc đạt được một trăm điểm, quư vị đạt tiêu chuẩn sanh vào cơi trời hoặc cơi người trong đời sau. Năm mươi điểm khó đảm bảo, chẳng nhất định có thể được làm thân người. Nói chung, được bảy tám  mươi điểm mới kể là chắc chắn đời sau được làm thân người. Chính chúng ta phải suy nghĩ, quư vị đọc kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo mấy lượt, đối chiếu, tự ḿnh chấm điểm bản thân, xem có thể đạt đến bảy, tám mươi điểm hay không? Nếu cảm thấy chẳng được th́ sẽ bị phiền phức to lớn. Chớ nên chẳng biết đạo lư và chân tướng sự thật này.

            Chúng ta lại xem tiếp: “Hựu Hội Sớ viết: Bồ Tát hữu nhị chủng trí, năng vi nhất thiết tu hành bổn” (Lại nữa, sách Hội Sớ giảng: “Bồ Tát có hai thứ trí có thể làm căn bản cho hết thảy các sự tu hành”). Tu hành chẳng thể không có trí huệ. Không có trí huệ là “tu mù, luyện đui”. Rất nhiều kẻ ngỡ ḿnh đang tu hành, trên thực tế là đang gây tạo oan nghiệt, đang tạo tác bất thiện, kẻ ấy thiếu trí huệ, tự cho là đang tu hành, chuyện như vậy rất nhiều. V́ vậy, thiếu trí huệ là không được. Hai thứ trí huệ ấy làm căn bản cho hết thảy các sự tu hành. “Hà giả vi nhị? Nhất vị Như Lư Trí, năng chiếu chư pháp bổn tánh, bất nhất, bất dị, bất sanh, bất diệt, thị danh thông chư pháp tánh” (Những ǵ là hai? Một là Như Lư Trí, có thể chiếu bổn tánh của các pháp, chẳng một, chẳng khác, chẳng sanh, chẳng diệt, nên gọi là “thông đạt tánh của các pháp”). Kinh nói đến điều này: Quư vị có Như Lư Trí, có trí huệ như thế, trí huệ ấy là ǵ? Có thể chiếu bổn tánh của các pháp. Ngài dùng chữ “chiếu kiến”, chẳng nói “thấy (kiến) bổn tánh của các pháp”. Ngài nói “có thể chiếu”, v́ sao không dùng Kiến, mà dùng Chiếu? Trong Kiến có phân biệt, có chấp trước, có t́nh thức trong ấy. Chiếu kiến: Chúng ta cầm một tấm gương, dùng gương để soi một người, gương sẽ chiếu rơ ràng, rành rẽ, nó chẳng có phân biệt, chẳng có  chấp trước, chẳng có thích hay không thích, đó là Chiếu Kiến. Trong kinh dùng chữ này, quư vị nên hiểu: Mắt chúng ta thấy sắc bên ngoài, mắt phải giống như một tấm gương, chớ nên có phân biệt, chấp trước, ưa thích, hay chẳng ưa thích. Quư vị vừa dấy niệm bèn là t́nh chấp, sai mất rồi, mê mất rồi! Dùng Chiếu Kiến, giống như một tấm gương; mắt ta giống như gương, [nh́n sự vật] rơ ràng, rành rẽ, nhưng trong [cái thấy ấy] chẳng có yêu ghét, chẳng có chán nhàm, mà cũng chẳng có ưa thích, hoàn toàn là tâm b́nh đẳng. Đó là Chiếu Kiến. Chiếu Kiến là trí huệ. Có phân biệt, có chấp trước, có yêu ghét, bèn là T́nh Kiến, chẳng phải là Chiếu Kiến. Hễ trong ấy có t́nh thức th́ t́nh thức là mê!

            Chư vị hăy nhớ, T́nh chẳng phải một chữ tốt đẹp! Trong Phật pháp, nó được gọi là “mê t́nh”, quư vị chẳng có trí huệ! T́nh và trí là đối lập; Chiếu là trí, T́nh là mê. Chiếu Kiến th́ quư vị bèn thấy bổn tánh của pháp, tánh lẫn tướng đều cùng thấy, thấy tướng bèn đồng thời thấy tánh. Thấy tánh là ǵ? Tánh - tướng chẳng một, chẳng khác, bất sanh, bất diệt; tánh bất sanh, bất diệt; tướng th́ sao? Tướng cũng bất sanh, bất diệt. Tướng là có sanh, có diệt; v́ sao nói nó chẳng sanh, chẳng diệt? Tốc độ [sanh diệt] quá nhanh, niệm trước vừa diệt, niệm sau bèn sanh. Tốc độ nhanh đến mức độ nào? Dựa trên cuộc đối thoại giữa Thích Ca Mâu Ni Phật và Di Lặc Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát bảo chúng ta: Một cái khảy ngón tay có ba trăm hai mươi triệu niệm, cũng có nghĩa là trong một cái khảy ngón tay có ba trăm hai mươi triệu lần sanh diệt, quư vị có thể tách ra từng lượt sanh diệt hay chăng? V́ thế nói sanh diệt giống như chẳng sanh diệt. Đó là nói theo tướng. Tánh th́ sao? Trong tánh chẳng có niệm, tánh có thể sanh ra niệm ấy. Chẳng phải là Đại Bồ Tát sẽ không làm được! Cảnh giới ấy mới gọi là “thông chư pháp tánh”, quư vị thông đạt, hiểu rơ tánh và tướng của hết thảy các pháp.

            Câu kế tiếp là “đạt chúng sanh tướng”, đó là Như Lượng Trí. “Nhị vị Như Lượng Trí, năng chiếu chúng sanh thù tướng” (hai là Như Lượng Trí, có thể chiếu tướng khác biệt của chúng sanh), “thù” () là bất đồng, [“thù tướng”] là các hiện tượng thiên sai vạn biệt. “Mê, ngộ, phàm, thánh các dị” (mê, ngộ, phàm, thánh, mỗi mỗi khác biệt), quư vị đều hiểu rơ ràng, minh bạch. “Thị danh đạt chúng sanh tướng” (đó gọi là “đạt chúng sanh tướng”). Câu kế tiếp nói rất hay: “Cố ‘thông chư pháp tánh’ thị Căn Bản Trí, ‘đạt chúng sanh tướng’ thị Sai Biệt Trí” (v́ thế, “thông hiểu tánh của các Pháp” là Căn Bản Trí, “thấu đạt chúng sanh tướng” là Sai Biệt Trí). Căn Bản Trí c̣n gọi là Thật Trí, thực tại; Sai Biệt Trí cũng gọi là Quyền Trí, tức phương tiện quyền xảo. Khi hóa độ chúng sanh, ở chung với chúng sanh, phải dùng Quyền Trí. Quyền Trí thiên biến vạn hóa; Căn Bản Trí là như như bất động, ở trong động mà chẳng động, nhưng trong không động lại có động. Do vậy, để biểu thị pháp, Phật pháp thường dùng pháp luân để biểu thị pháp, dùng luân, luân là ǵ? Viên, tức là h́nh tṛn được nói trong H́nh Học hiện thời. Đức Phật dùng điều này để biểu thị pháp. Chỉ có Viên th́ mới có thể biểu thị trong động mà chẳng động. Viên là nói tới chu vi của nó, chúng ta thấy tấm gương này, cũng là một h́nh tṛn, chu vi h́nh tṛn là động. Vành bánh xe là động, nhưng tâm h́nh tṛn ấy (trục bánh xe) chẳng động, quư vị thấy “trong động lại chẳng động”. H́nh tṛn có tâm hay không? Đương nhiên là có tâm. Tâm h́nh tṛn ở đâu? T́m chẳng được! Nó thật sự có tâm, nhưng chắc chắn quư vị chẳng t́m được. Quư vị chấm một điểm ở chỗ đó, cái chấm nh́n dưới kính lúp, do nó có diện tích, nên chẳng phải là điểm, [như vậy là] t́m điểm không được. Trong H́nh Học nói “một điểm di động tạo thành đường, đường di động tạo thành mặt”, chúng ta có thể thấy được mặt, chứ đường cũng chẳng nh́n thấy, như vậy th́ điểm càng chẳng nh́n thấy[2]. Dấu vết của điểm trọn chẳng t́m được. Nói theo lư luận, nó nhất định có. Chẳng có nó th́ làm sao h́nh thành ṿng tṛn cho được? Do vậy, nhất định phải có tâm ṿng tṛn. Đức Phật dùng điều này để biểu thị Phật pháp, tâm đường tṛn tượng trưng Pháp Tánh.

            V́ thế, Pháp Tánh chẳng phải là vật chất, mà cũng chẳng phải là tinh thần, chẳng t́m Pháp Tánh được, nhưng Pháp Tánh trọn khắp hết thảy các chỗ, hết thảy các hiện tượng đều sanh từ Pháp Tánh. Quư vị thấy h́nh tṛn, h́nh tṛn bé, h́nh tṛn lớn, dẫu lớn cách mấy đều chẳng rời khỏi tâm h́nh tṛn. Chẳng có cái tâm ấy, h́nh tṛn sẽ chẳng thể thành lập, khẳng định là có cái tâm ấy. Quư vị thấy cái tâm ấy có thể sanh, có thể hiện, có thể sanh ra đường tṛn ấy, có thể hiện h́nh tṛn. Nó có thể hiện, cho nên bất đắc dĩ dùng chữ Không để tượng trưng cho nó. Kinh Bát Nhă thường nói: “Sắc tức là Không”, Sắc là ǵ? Đường tṛn, Sắc là đường tṛn. Không là ǵ? Không là tâm h́nh tṛn. Chúng là một Thể, chẳng thể tách rời. Rời khỏi tâm đường tṛn, lấy đâu ra tướng bánh xe? Tướng ấy chẳng c̣n nữa! V́ thế, nhà Phật dùng điều này để biểu thị pháp, gọi hết thảy các pháp là “pháp luân”, pháp luân biểu thị ư nghĩa này. Chúng ta nh́n thấy h́nh tṛn, bèn lập tức biết vũ trụ này chẳng phải Không, chẳng phải Có, mà cũng Không, cũng Có. Biết chân tướng sự thật, trí huệ đă mở mang, biết bản thể của hết thảy các pháp chính là Không, trọn chẳng thể được. Do lẽ đó, hết thảy các pháp có thể thọ dụng, có thể thưởng thức, nhưng chẳng thể chiếm hữu, v́ sao? Bản thể của nó chính là Không, quư vị chẳng chiếm hữu được! Không riêng ǵ bản thể của hết thảy vạn pháp chính là Không, mà bản thể của cái thân chúng ta cũng chính là Không, nên chúng ta mong chiếm hữu, khống chế thân thể, sẽ chẳng làm được. Nếu có thể khống chế và chiếm hữu thân thể này, ta sẽ khiến cho nó năm nào cũng là mười tám tuổi th́ tốt quá, sống đến một ngàn năm vẫn là dáng vẻ mười tám, quư vị mới có năng lực chiếm hữu, khống chế nó, nhưng quư vị làm không được. V́ thế, đức Phật dạy chúng ta có thể thọ dụng, có thể thưởng thức, nhưng quyết định chớ nên có ư niệm khống chế hoặc chiếm hữu. [Nếu có ư niệm ấy], quư vị đă tạo nghiệp, hễ tạo nghiệp bèn chắc chắn có khổ báo về sau. Người và người, người và Phật, Bồ Tát, mỗi người và hết thảy chúng sanh đều có duyên phận; người hiểu rơ th́ phải nắm vững những duyên phận ấy, biến các duyên phận ấy thành pháp duyên, đừng nên biến thành t́nh duyên, càng chớ nên biến thành ác duyên, đó là đúng. Biến thành t́nh duyên sẽ phải trả nợ, biến thành ác duyên sẽ oan oan tương báo, vô cùng đau khổ! Biến thành pháp duyên sẽ tốt đẹp, tất cả mọi người giác ngộ, có thể cùng nhau tu hành, cùng nhau chứng quả, đồng tâm hiệp lực độ chúng sanh mê hoặc, điên đảo, đó là đúng, đấy là đi theo cùng một con đường với Phật, Bồ Tát.

            Nếu thật sự mong cho thế giới này an định, ḥa b́nh, phương pháp rất đơn giản, con người sanh vào thế gian này, đầu tiên là phải hiểu lư, phải khai trí huệ, quư vị bèn có thể thấy thấu suốt, có thể buông xuống. Sau đấy, chúng ta sống vài chục năm trong thế gian này, sống suốt mấy chục năm, theo đuổi một nghề nghiệp, khéo lo toan, thực hiện sự nghiệp ấy tốt đẹp, làm công việc ấy tốt đẹp, hỗ trợ, giúp đỡ những người làm nghề khác, xă hội này sẽ an tường, ḥa thuận. Mọi người vâng giữ nghề nghiệp và chức trách của chính ḿnh, đừng nên can thiệp nghề nghiệp của kẻ khác, mỗi cá nhân đều thực hiện tốt nghề nghiệp của chính ḿnh. Giống như một bộ máy, bộ máy do rất nhiều linh kiện hợp thành, mỗi linh kiện đều tốt đẹp th́ cỗ máy ấy sẽ vận hành suông sẻ. Nghề nghiệp của người xuất gia là ǵ? Dạy học, dạy học Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời dạy học, chúng ta kế thừa Thích Ca Mâu Ni Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật lưu lại sách giáo khóa, hăy nghiêm túc học tập, giảng giải cho những đồng học hữu duyên đến học tập, mọi người cùng nhau học tập, thực hiện tốt đẹp nghề nghiệp này. Nghề nghiệp này chủ yếu là giảng luân lư, đạo đức, nhân quả, mỗi ngành nghề trong xă hội đều phối hợp sẽ tốt đẹp lắm, đó là chuyện tốt. Đó là tiến hành giáo dục, giáo dục tôn giáo, đối với nhà Phật mà nói, hai chữ “giáo dục” vô cùng thiết thực. Giáo dục của Phật Đà xác thực là sự giáo dục chủ yếu, giáo học trọng yếu, giáo hóa đáng tôn sùng. Không chỉ có cống hiến đối với nhân loại, mà đối với chúng sanh trong mười pháp giới đều có cống hiến rất lớn, dạy chúng ta chứng đắc Căn Bản Trí và Hậu Đắc Trí. Sai Biệt Trí là Hậu Đắc Trí. Căn Bản Trí là liễu giải chân tướng sự thật, đấy là Căn Bản Trí. Hậu Đắc Trí là phương tiện thiện xảo, ứng dụng Căn Bản Trí vào cuộc sống hằng ngày, đó là Sai Biệt Trí. Chúng ta học “thông đạt tánh tướng” tới đây!

            Bây giờ chúng ta lại xem tiếp, đoạn thứ hai là “cúng Phật độ sanh”, [tức là] cúng dường Phật, phổ độ chúng sanh. Câu này cũng hết sức quan trọng. Kinh văn:

 

            (Kinh) Cúng dường chư Phật. Khai đạo quần sanh.

            (經) 供 養 諸 佛。開 導 群 生。

            (Chánh kinh: Cúng dường chư Phật, khai thị, giáo hóa chúng sanh).

 

            Đối với hai câu này, chúng ta thấy [cụ Niệm Tổ giảng]: “Cúng dường hữu nhị” (cúng dường có hai loại), thứ nhất là tài cúng dường, thứ hai là pháp cúng dường. Chúng ta xem trước: “Tài cúng dường, cúng dường hương, hoa, ẩm thực đẳng tài vật” (Tài cúng dường: Cúng dường hương, hoa, thức ăn v.v… các món tài vật). [Chỉ nêu lên] ba thứ này, chứ phạm vi của tài vật rất rộng. Nói đến ba thứ ấy v́ ba thứ ấy bao hàm ư nghĩa rất sâu. Hương biểu thị thông tin. Thông tin hiện thời đă phát triển đến truyền h́nh vệ tinh và mạng Internet. Vào thời cổ, truyền tin phải cậy vào hương. Nếu quư vị có dịp đến Trung Quốc văn cảnh, thăm Vạn Lư Trường Thành, quư vị sẽ hiểu đốt hương nhằm ư nghĩa ǵ. Vạn Lư Trường Thành là tuyến đường dài mấy ngàn dặm, phía ngoài trường thành là Hung Nô. Thời cổ, người Mông Cổ là dân tộc du mục, Trung Quốc là xứ nông nghiệp, lấy nông nghiệp lập quốc, tức là lấy trồng trọt làm chủ yếu. Những dân tộc du mục thường xâm lược, cướp đoạt, nên chánh quyền mới đắp trường thành để làm công sự pḥng ngự. Khi họ tấn công th́ làm thế nào? Làm cách nào để báo tin cho hoàng thượng để nhà vua nhanh chóng phái binh đến cứu? Do vậy, quư vị thấy trường thành, cứ cách mỗi khoảng lại có phong hỏa đài (烽火台). Phong hỏa đài là ḷ hương, đó là phong hỏa đài. Đốt ǵ? Đốt “lang yên” (狼煙), [tức là] đem phân chó sói đốt cho bốc khói, khói ấy chẳng dễ bị gió thổi tan. Khói phân sói là như vậy đó, chẳng bị thổi tan mất. Thấy phong hỏa đài [bên kia] đốt khói phân sói, phong hỏa đài bên này cũng đốt. Phong hỏa đài từ Ngọc Môn Quan[3] truyền đến Trường An, thời ấy thủ đô ở Trường An. Chỉ cần khoảng mấy giờ, ba bốn giờ liền truyền đến [kinh đô], Hoàng Thượng lập tức biết biên thùy có địch nhân xâm lược. Do vậy, nó nhằm để truyền đạt tin tức.

            Trong Phật pháp th́ sao? Quư vị thấy lư hương giống như phong hỏa đài, chúng ta thắp một nén nhang là ǵ? Báo tin cùng Phật, Bồ Tát, có ư nghĩa này. Do vậy, đừng nên đốt hương quá nhiều. Hương đốt quá nhiều sẽ là khói đen mù mịt, không khí cũng bị ô nhiễm. Thắp một nén hương thơm, đó là biểu thị pháp, biểu thị tâm ư của chúng ta giao tiếp với Phật, Bồ Tát, mang ư nghĩa này. Quư vị thấy đó, bảo quư vị cúng dường thứ ấy, chúng ta thiện tâm thiện ư cúng dường Phật, Bồ Tát, mang ư nghĩa này. Hiện thời người đốt hương đông đảo, mấy ai hiểu ư nghĩa này? Ư nghĩa ấy khiến Phật, Bồ Tát hoan hỷ. Hiện thời, đốt hương nhằm ư nghĩa ǵ? Bợ đỡ Phật, Bồ Tát, cầu Phật, Bồ Tát phù hộ cho tôi thăng quan phát tài. Nếu tôi phát tài to, tôi phát tài một trăm vạn, sẽ đến cúng dường Ngài một vạn! Đàm phán điều kiện, coi Phật, Bồ Tát như tham quan ô lại, thắp hương như vậy làm sao có phước cho được? Há có lẽ ấy? Quư vị đă tính toán quá kỹ! Nếu Ngài phù hộ tôi được một trăm vạn, tôi sẽ đến cúng dường Ngài một vạn, thành ra thể thống ǵ! Ư niệm ấy đă sai be bét, niệm niệm đều tạo tội nghiệp, mà vẫn mong cầu Phật, Bồ Tát giúp kẻ ấy tạo tội nghiệp, lẽ đâu có chuyện như vậy? Trong phần trước, chúng tôi đă nói rất rơ ràng, chức nghiệp của Phật, Bồ Tát là thầy giáo, chỉ quan tâm dạy dỗ tốt đẹp, chuyện ǵ khác đều chẳng màng tới! Thật vậy! Hành hạnh của chính ḿnh cho tốt đẹp, chẳng quản ǵ khác, đó là đúng. Do vậy, quư vị hăy thật sự hiểu cúng dường Tam Bảo có ư nghĩa như thế đó, ngàn vạn lần đừng nên tạo tội nghiệp, tạo tội nghiệp là sai lầm quá đỗi. Hương cúng dường [là như vậy đó].

      Hoa cúng dường là ǵ? Hoa tượng trưng cho nhân. Quư vị thấy thực vật nở hoa trước, kết trái sau. Chúng ta thấy thực vật trổ hoa tốt đẹp, bèn biết quả nhất định tươi tốt. Nếu hoa nở chẳng tốt, sẽ biết thâu hoạch bị trục trặc, quả chẳng kết tốt đẹp. Hoa là như thế đó. Chúng ta tu cái nhân tốt đẹp, đó là hoa. Hoa tượng trưng cho tu nhân. Nếu cúng trái cây th́ trái cây tượng trưng cho sự kết quả, chúng ta dùng thiện nhân thiện quả để cúng dường Phật, biểu thị ư nghĩa này. Chẳng phải là Phật muốn ngắm hoa ấy, muốn ăn những quả ấy, chẳng có lẽ đó! Bởi lẽ, trong Phật môn hết thảy đều là giáo học. Cúng trước Phật một chén nước th́ nước ấy là ǵ? Nước là tâm chúng ta, tâm chúng ta phải trong sạch như nước, tâm chúng ta phải b́nh đẳng, đó là như kinh đă nói “thanh tịnh, b́nh đẳng”. Dùng nước để tượng trưng cho tâm thanh tịnh, b́nh đẳng. Chẳng phải là Phật, Bồ Tát muốn uống nước. [Nếu hiểu là cúng nước cho các Ngài uống] th́ trật rồi, toàn là để biểu thị pháp. Chúng ta hiểu rơ ư nghĩa này, hễ nh́n thấy những vật cúng ấy, chúng ta bèn hiểu phải làm theo cách nào, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác đều chớ nên có tà niệm, chớ nên có tà hạnh, [những vật cúng ấy] đều nhằm dạy chúng ta.

            [Dâng cúng] thức ăn là báo ân, các Ngài có ăn hay không? Các Ngài không ăn! Phật, Bồ Tát há ăn những thứ ấy? V́ sao dùng thức ăn để cúng dường? Thuở Phật, Bồ Tát tại thế, các Ngài khất thực. Chúng ta tài cúng dường Phật, Bồ Tát, tài cúng dường là một bát cơm. Có khi chẳng phải là một bát, mà là một muỗng cơm, một chút ít. V́ thế, đức Phật đi khất thực mỗi nhà, xin bảy nhà mới có một bát cơm. Chẳng phải là một nhà cho nhiều như thế, một nhà chẳng có nhiều như thế. Thuở ấy, con người sống rất kham khổ, chính ḿnh bớt ăn một chút để cúng Phật, mang ư nghĩa này. Nay chúng ta chẳng quên gốc, chẳng quên t́nh trạng cuộc sống của thầy trong thuở ấy. Thầy khất thực, chúng ta cúng dường một chút cơm, chủ yếu là cơm. Nếu cúng dường thức ăn th́ ba món thức ăn biểu thị điều ǵ? Tam đức lục vị, tối đa là sáu món. Sáu món tượng trưng cho sáu vị, chua, ngọt, đắng, cay, mặn, nhạt, bao gồm sáu vị ấy, đă viên măn rồi. V́ thế, chớ nên cúng quá nhiều. Cúng quá nhiều là thất lễ, tỏ lộ sự bợ đỡ; cúng ít quá th́ chẳng cung kính. V́ thế, tốt thiểu là ba món là đúng pháp, biểu thị tam đức, sáu món tượng trưng lục vị, đó là lễ tiết. Phật đối với chúng ta là pháp cúng dường, chúng ta đối với Phật là tài cúng dường. Phật lại chẳng cần tài, chỉ cần một bát cơm. Mỗi ngày đi khất thực là một bát cơm, cho nên cúng dường thức ăn. Những tài vật khác, nói thật ra tùy thuộc vào chỗ [những món ấy] hữu dụng cho sự hóa độ chúng sanh của Phật [th́ dâng cúng], chứ chỗ nào chẳng hữu dụng bèn chẳng cần đến. Đức Phật ngũ nhăn viên minh, vào thời ấy, tức là từ ba ngàn năm trước mà có thể thấy xă hội hiện tiền, trong thời đại ấy Ngài có thể chẳng cần đến tiền. Trong thời đại hiện tại, chẳng có tiền sẽ không được. Quư vị ra khỏi cửa ngồi xe hoặc ngồi thuyền chẳng giống như thời cổ. Thời cổ, xe, thuyền hễ gặp người xuất gia bèn chẳng lấy tiền, họ biết cúng dường. Hiện thời chẳng được, bây giờ mà không mua vé, họ chẳng cho quư vị lên. Do vậy, hiện thời, nếu nhận lời thỉnh cầu, phải cần đến tiền đi đường và tiền tiêu dùng. Quư vị đến nơi nào đó, nếu là chỗ chùa, miếu, am, đường th́ chẳng sao. Nếu chẳng có, các cư sĩ tạm thời thuê chỗ để thỉnh pháp sư giảng kinh, thường ngụ tại khách sạn, đều phải tốn tiền. Đức Phật nghĩ đủ mọi lẽ, nên sau đấy cho quư vị cúng thêm tài vật. Phải nên nhớ, kinh thường nói: “Trong hết thảy các thứ cúng dường, pháp cúng dường bậc nhất”. Nếu chẳng có pháp cúng dường, tài cúng dường chỉ tu được một chút phước, tức là phước báo nhân thiên, vẫn phải là [cúng dường những vị] có đức hạnh và tu tŕ thật sự, tốt nhất là những vị xuất gia chứng quả, quư vị mới thật sự gieo phước. Nếu chẳng phải là người thật sự tu hành, quư vị đến cúng dường kẻ ấy, tức là đă phạm lỗi, chớ nên không biết những hiện tượng ấy.

            Hiện thời, Phật pháp suy vi, suy đến mức nào? Suy đến mức người học Phật chúng ta chẳng đúng pháp. Cứu vớt Phật pháp bằng cách nào? Hiện thời Phật pháp có nguy cơ, phải dùng phương pháp ǵ để cứu vớt nguy cơ cho Phật pháp? Hăy nghiêm túc học Phật. Nghiêm túc học Phật th́ nhất định phải tŕ giới, phải tu Định, phải khai trí huệ. Tu Định, có nhất định phải tu Thiền Định hay không? Chẳng nhất định! Quư vị phải biết tám vạn bốn ngàn pháp môn được nói trong Đại Thừa Phật pháp, môn nào cũng đều là Thiền Định. Nếu pháp môn nào rời khỏi Giới - Định - Huệ, đó chẳng phải là Phật pháp, phải biết điều này! Phật pháp chân chánh là ǵ? Phật pháp chân chánh quyết định nương theo Giới - Định - Huệ. Thứ nhất là phải tŕ giới, chẳng tŕ giới là giả, chẳng thật. Nếu không tŕ giới, ngay cả phước cũng chẳng tu được, Định - Huệ càng chẳng cần phải nói nữa! Đầu tiên là tŕ giới. Tŕ giới thực hiện từ chỗ nào? Hiện thời, tôi đặc biệt nhắc nhở các đồng học: Hăy thực hiện từ Đệ Tử Quy, Đệ Tử Quy là giới luật căn bản. Có thể làm được Đệ Tử Quy, sẽ tu Cảm Ứng Thiên tốt đẹp, quư vị có thể thực hiện Cảm Ứng Thiên. Hai thứ ấy là căn cơ của Phật pháp, các đồng học học Phật chớ nên không biết. Trong Phật Tạng Kinh, Thích Ca Mâu Ni Phật, [tôi nói] Phật Tạng Kinh, chẳng phải là Đại Tạng Kinh, trong các bộ kinh Phật có một quyển kinh chẳng lớn, phân lượng chẳng nhiều lắm, tựa đề của kinh là Phật Tạng Kinh. Trong kinh ấy, đức Phật dạy chúng ta, Ngài nói: “Phật tử”, tức là đệ tử của Phật, “chẳng học Tiểu Thừa trước, sau đó học Đại Thừa, chẳng phải là đệ tử Phật”. Đức Phật nói rất nghiêm túc, quư vị học Phật mà chẳng học Tiểu Thừa trước, sau đó học Đại Thừa, đức Phật chẳng thừa nhận quư vị là học tṛ của Ngài. Giống như đi học, trước hết, quư vị phải học Tiểu Học, rồi học Trung Học, rồi học Đại Học, đó là đúng. Nếu quư vị nhảy lớp, chẳng cần đến Tiểu Học mà học ngay vào Đại Học, đức Phật chẳng thừa nhận quư vị.

            V́ thế, Phật pháp truyền đến Trung Quốc, kinh điển Tiểu Thừa được phiên dịch hết sức hoàn bị, kinh điển Đại Thừa được tuyển chọn để phiên dịch. V́ sao? Quá nhiều! Thuở ấy giao thông hết sức bất tiện, chuyên chở [kinh điển] đến Trung Quốc rất khó khăn. Do vậy, trong các kinh điển Đại Thừa phải tuyển chọn, tuyển chọn những bộ hay nhất, thích hợp cho người Trung Quốc học tập, chọn lựa những bộ kinh ấy. Có thể là [những kinh Đại Thừa vốn có tại Ấn Độ] truyền đến Trung Quốc chưa được một nửa, chúng ta chớ nên không biết [điều này]. Tiểu Thừa là cơ sở, cơ sở rất trọng yếu, v́ thế, kinh Tiểu Thừa được phiên dịch vô cùng hoàn bị. Hiện thời, Tứ A Hàm trong Đại Tạng Kinh [bằng tiếng Hán] là kinh Tiểu Thừa. Đối chiếu với Nam Truyền Đại Tạng Kinh bằng tiếng Ba Lợi (Pali) của các nước theo [Phật giáo] Nam Truyền như Thái Lan, Miến Điện, điển tịch bằng tiếng Pali so với [các kinh Tiểu Thừa] tiếng Hán đại khái chỉ nhiều hơn năm mươi bộ. Hơn ba ngàn bộ kinh mà chỉ nhiều hơn năm mươi bộ, chẳng đáng kể! Ta biết: Tại Trung Quốc, kinh Tiểu Thừa được dịch hoàn bị như thế. Do vậy, tại Trung Quốc có hai tông phái Tiểu Thừa là Câu Xá Tông và Thành Thật Tông. Đời Đường có [hai tông ấy], đều là trước hết đặt vững cơ sở Tiểu Thừa rồi mới có thể học Đại Thừa. Nhưng nói thật ra, người Trung Hoa đối với văn hóa truyền thống Trung Quốc lưu luyến rất sâu, từ giữa đời Đường trở đi, chẳng học Tiểu Thừa nữa. Có trái nghịch ư nghĩa của Thích Ca Mâu Ni Phật hay không? Chẳng có! V́ những vị cao tăng đại đức Trung Quốc nhận thấy Nho và Đạo của Trung Quốc chẳng thua kém Tiểu Thừa.

            Do vậy, ở Trung Quốc, bất luận tại gia hay xuất gia đều chẳng học Tiểu Thừa, mà học Nho, học Đạo. Nho và Đạo là văn hóa bổn địa của Trung Quốc, [dùng Nho và Đạo] thay thế Tiểu Thừa bèn thành công. V́ thế, cho tới hiện tại, suốt một ngàn bảy trăm năm qua đều làm như vậy. Trong một ngàn bảy trăm năm ấy, trong mỗi tông phái xuất hiện rất nhiều vị cao tăng, tổ sư, đại đức, chứng tỏ [cách làm ấy] hữu hiệu, dùng Nho và Đạo thay thế Tiểu Thừa hữu hiệu. V́ vậy, tại Trung Quốc, Nho, Thích, Đạo biến thành một nhà, trên h́nh thức bèn có Nho, Thích, Đạo, nhưng xét theo thực chất, chẳng có ǵ không học. Người học Phật đọc Tứ Thư, Ngũ Kinh, cũng học Lăo Trang. Đạo trưởng Đạo Giáo cũng học kinh Phật, cũng học sách Nho. Người học Nho gia cũng học Đạo và Phật. V́ vậy, trên thực tế th́ đă dung thông từ mấy ngàn năm trước. Tại Thiếu Lâm Tự, chúng tôi phát hiện một tấm bia, theo truyền thuyết, tấm bia ấy được lập vào thời Đường Túc Tông. Đường Túc Tông là con Đường Minh Hoàng, tối thiểu là hơn một ngàn bốn trăm năm. Bia ấy ghi điều ǵ? “Tam giáo cửu lưu là một nhà”. Nay chúng ta nói là “đa nguyên văn hóa”, nói tới tôn giáo đại đoàn kết. Thời đại Đường Túc Tông đă lập bia ở đó, cho thấy đúng là từ thuở ấy, người ta đă bắt đầu quan niệm “tam giáo cửu lưu là một nhà”, tư tưởng văn hóa đa nguyên phát triển khá sớm tại Trung Quốc, đă được đề ra từ đời Đường, chẳng phải là một học thuyết thời trang trong hiện tại. Do vậy, pháp cúng dường là trọng yếu.

            Ba căn bản Nho - Thích - Đạo rất trọng yếu, ba căn bản ấy là căn bản của giới luật. Học tập nhất định phải khởi sự từ Đệ Tử Quy, thứ hai là Cảm Ứng Thiên, thứ ba là Thập Thiện Nghiệp Đạo, có cơ sở ấy rồi mới học Phật sẽ chẳng có vấn đề ǵ. Hàng xuất gia c̣n phải học thêm một quyển nữa là Sa Di Luật Nghi, tức là bốn căn bản. Sau khi đă vun quén vững bền bốn căn bản ấy, bất luận học Nho, học Đạo, hay học Phật, quyết định có thành tựu. Học Nho thành thánh, thành hiền, học Đạo thành thần, thành tiên, học Phật thành Phật, thành Bồ Tát, thật sự có thể đạt được. Do vậy, quư vị chẳng có căn bản, sẽ không được. Chẳng có căn bản, học nhọc nhằn cả đời, đến cuối cùng vẫn chẳng có kết quả, quư vị hiểu vun bồi căn bản trọng yếu lắm! Có bốn căn bản ấy, Phật giáo sẽ hưng vượng. Chẳng có bốn căn bản ấy, chắc chắn Phật giáo sẽ diệt vong, chúng ta chớ nên không chú ư điều này. Nay chúng ta cúng dường Tam Bảo, hăy dùng giáo dục vun bồi căn bản, sau đó thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, đó là cúng dường thật sự. Sự cúng dường này sẽ khiến cho Phật pháp tồn tại lâu dài trong thế gian, nối tiếp huệ mạng của Phật. Do sự cúng dường chân thật này, đời này sẽ chẳng uổng phí, đời này ta đă kiến công lập nghiệp trong cơi nhân gian này, thật sự có giá trị. V́ thế, hiện tại, chớ nên không biết điều này, hăy đúng pháp tu hành, lợi ích chúng sanh. Thuở đức Thế Tôn tại thế, Ngài đă suốt đời thị hiện, làm cho chúng ta thấy, thân hành, ngôn giáo, những giới luật trong kinh Phật Ngài đă thực hiện toàn bộ. Đối với những ǵ đă nói trong kinh điển, chẳng có câu nào Ngài chẳng làm được, đấy mới là một vị thầy tốt đẹp!

      V́ vậy, chúng ta phải tu cúng dường. Tiếp đó, [sách Chú Giải] lại nói: “Hựu phân tam chủng” (lại chia thành ba thứ [cúng dường]), nói đến ba loại cúng dường, cúng dường lại chia ra ba loại. Loại thứ nhất là “lợi cúng dường”, trong phần trên, lợi cúng dường được gọi là tài cúng dường, “phụng hương, hoa, ẩm thực đẳng dă” (dâng cúng hương, hoa, thức ăn v.v…). Thứ hai là “kính cúng dường, tán thán cung kính dă” (kính cúng dường tức là tán thán, cung kính), loại cúng dường này nhằm giới thiệu Phật, Bồ Tát với học tṛ. Chư vị phải biết Phật pháp là sư đạo, thầy luôn vô cùng khiêm hư, người càng có đức hạnh càng khiêm hư. Quư vị thỉnh giáo họ, họ nói chuyện ǵ ta cũng đều không biết, quư vị hăy nên t́m người cao minh để thỉnh giáo. Tuyệt đối chẳng có một vị thầy nào nói: “Ta ngon lành lắm nghe! Quư vị đều đến t́m ta, quư vị hễ không hiểu điều ǵ đều nên t́m đến ta”, vị thầy ấy chẳng như vậy! Hiện thời th́ có, có rất nhiều [vị thầy tự tâng bốc ḿnh như vậy], chứ thời cổ chẳng t́m thấy, thời cổ luôn là khiêm hư. Do đó, trường học hiện thời chiêu sinh; trước kia, chẳng có vị thầy nào dám chiêu sinh, [bởi chiêu sinh tức là] quư vị quá cuồng vọng, quá tự đại! Chiêu sinh tỏ lộ điều ǵ? Ta là một vị thầy giỏi, ta có năng lực dạy quư vị, các vị đều theo ta, [biểu lộ tâm thái kiêu căng] như vậy đó! Trước kia, thầy chẳng vậy, trước kia thầy khiêm hư. Học tṛ làm cách nào? Đồng học giới thiệu, tôi học ở đây khá lắm, tôi giới thiệu một vị, vị thầy ấy khá lắm, quư vị có thể cùng với tôi học theo thầy. Giới thiệu thầy, chẳng phải là chiêu sinh. Chúng ta phải tiếp dẫn đại chúng như thế nào? Đại chúng chẳng nhận biết thầy. V́ thế, học tṛ phải nêu bày tấm gương rất tốt đẹp, cung kính, tán thán thầy, người khác nh́n vào, đó là ǵ? Cung kính nhằm thay thầy giới thiệu với học tṛ, có ư nghĩa như thế.

            Chẳng phải là thầy nhất định cần chúng ta cung kính, chẳng phải vậy, thầy chẳng nói lời ấy. Trong tâm chúng ta cung kính thầy, tốt lắm, trên h́nh thức có cần thiết hay không? Trên h́nh thức th́ không cần, h́nh thức là diễn tuồng cho người chẳng biết, chẳng nhận biết nh́n vào. Càng là người có địa vị, tín đồ tại gia có địa vị, có học vấn, cung kính người xuất gia dường ấy, người khác trông thấy, [sẽ nghĩ] nhất định [vị xuất gia ấy] có đạo đức, nhất định là bậc lỗi lạc, ai nấy đều kéo đến. Đây là nghĩa vụ phải nên trọn hết của hàng học tṛ. Một vị thầy tốt đẹp dường ấy, nhưng người ta chẳng nhận biết, ở ngay trước mặt mà bỏ lỡ rất đáng tiếc. Chúng ta biết kẻ hữu duyên mà chẳng giới thiệu cho họ, đó là tội lỗi, chúng ta có nghĩa vụ giới thiệu. Lúc thầy c̣n sống, phải thường đến thăm thầy, đó là ǵ? Làm cho đại chúng trong xă hội thấy, biết: Bậc cao nhân ấy tuy im lặng, chẳng nghe tới tiếng tăm, nhưng thật sự có tu tŕ, thật sự có đạo đức, thật sự có học vấn, hăy giới thiệu rộng răi. Thầy mất, tạo dựng từ đường kỷ niệm thầy. Thầy để lại trước tác, phải giới thiệu cho người đời sau biết, chịu học theo thầy. Trong giảng đường, pḥng học, chúng ta thờ ảnh thầy. Đó là ǵ? Giới thiệu thầy cùng quảng đại quần chúng, khiến cho mọi người nhận biết thầy. Thầy đă khuất, quả thật vẫn c̣n trước tác lưu truyền hậu thế, trong tương lai, người ta trông thấy những thứ ấy, biết là của báu, là trước tác của người thật sự có đức hạnh, có học vấn, có tu hành, sẽ hết sức coi trọng, nhất tâm nhất ư học tập vị ấy, mục đích ở chỗ này.

            Thuở đức Phật tại thế, mọi người biết Ngài suốt đời chẳng có trụ xứ, Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng dựng một đạo tràng hay một ngôi chùa miếu nào, chẳng có! Cả đời chẳng làm! Khi viên tịch là ở vùng quê, trong rừng. Sau khi đức Phật khuất bóng, quư vị thấy người đời dựng đại hùng bảo điện giống như hoàng cung, tạc tượng Ngài thờ phụng trong ấy, đó là ǵ? Đều là khiến cho nhân dân sanh ḷng kính ngưỡng đối với thầy. Có thể kính ngưỡng vị thầy ấy, cũng sẽ kính ngưỡng học tṛ, nẩy sanh tín tâm và hứng thú đối với kinh điển di giáo của thầy, các đệ tử đức Phật đến dạy bảo, họ sẽ hoan hỷ tiếp nhận, dụng ư ở chỗ này. Thoạt đầu, tạo lập tự viện am đường thật sự là trường học. Tự viện am đường lên lớp mỗi ngày, chúng ta giảng kinh là lên lớp. Chẳng phải chỉ là một vị thầy, mà những vị thầy thật sự thân hành ngôn giáo, trong đại tự viện có mấy chục vị, tiểu tự viện đại khái cũng có chừng mười vị, cho nên các vị ấy dạy học chẳng gián đoạn. Có lắm lúc, thuận theo yêu cầu của học tṛ, đặc biệt mở khóa học cho họ. Điện đường là pḥng học, mỗi điện đường đều mở lớp, giống như trường học. Nhưng học tṛ chẳng thể môn nào cũng học, không thể được! Cổ nhân Trung Quốc dạy học, nhấn mạnh “giáo chi đạo, quư dĩ chuyên” (đạo giáo dục là cốt yếu tinh chuyên), tuy câu này do tổ tiên đề ra, nhưng Phật giáo tuân thủ, nên quư vị học kinh giáo chỉ có thể học một môn, chẳng thể học rất nhiều môn [cùng một lúc].

            Giống như hiện thời chúng ta buổi sáng trong hai tiếng đồng hồ học kinh Vô Lượng Thọ ở đây, pḥng học sát vách giảng kinh Kim Cang, quư vị nghe tôi giảng ở đây xong, lại sang bên kia nghe kinh Kim Cang, có được hay không? Không được! Quư vị chỉ có thể học một thứ, chẳng thể đồng thời học rất nhiều thứ. Học một thứ xong, học xong một khoa mục, học hoàn tất một khoa mục này rồi, quư vị có thể chọn một khoa mục khác, lại có thể chọn một bộ kinh khác để tu. Khoa mục này học chưa xong, chẳng thể học khoa thứ hai! Thâm nhập một môn sẽ đắc Định. Do Giới đắc Định, Giới là quy củ, nghiêm ngặt tuân thủ quy củ, tâm người ấy thanh tịnh bèn có thể đắc Định. Thời gian Định đă lâu, lại nghe kinh hằng ngày, bất ngờ một lúc nào đó, hoát nhiên đại ngộ, tức là khai ngộ, đấy mới là mục tiêu học tập. Do vậy, mục tiêu học tập của chúng ta, thứ nhất là đắc tâm thanh tịnh, thứ hai là đắc định, thứ ba là khai ngộ, đạt đến khai ngộ sẽ là viên măn. Sau khi khai ngộ, bất luận là kinh giáo nào hoặc giảng đường của người nào đều hoan nghênh quư vị đến nghe. Trước khi khai ngộ, không được! Quư vị chỉ có thể học một môn, chẳng thể học hai môn. Đấy là Kính Cúng Dường, hăy hiểu ư nghĩa chân thật của sự cung kính.

            Thứ ba là “hành cúng dường, thọ tŕ tu hành diệu pháp”. Thầy khảo hạch học tṛ, tức là đối với thành tích của học tṛ, muốn khảo sát trên phương diện này. Nói cách khác, quư vị có làm được những ǵ quư vị đă học hay chăng? Nếu chẳng thể áp dụng những thứ đă học vào cuộc sống, công việc, xử sự, đăi người, tiếp vật, tức là quư vị chưa học được! Nói cách khác là thất bại, chẳng thể thọ dụng. V́ thế, Phật pháp thật sự là một học vấn, chẳng giả, học đến mức dùng được, điều này được coi trọng hơn bất cứ chuyện ǵ khác. Quư vị học xong, chẳng đạt được lợi ích chân thật th́ học để làm ǵ? Lợi ích chân thật đầu tiên là thân tâm thanh tịnh, phiền năo nhẹ nhàng, trí huệ tăng trưởng, chắc chắn! Đấy là lợi ích mà bản thân quư vị đạt được. Quả nhiên, tâm thanh tịnh, trí huệ tăng trưởng, quư vị hăy nên suy nghĩ: Quư vị tại gia học Phật, gia đ́nh quư vị có hạnh phúc hay không? Quư vị có thể mang lại hạnh phúc cho gia đ́nh, có trí huệ, có đức hạnh, sự nghiệp kinh doanh của quư vị là sự nghiệp Bồ Tát. Hiện thời, tại Trung Quốc có mấy chỗ làm mẫu, [chẳng hạn như] công ty xí nghiệp của ông Hồ Tiểu Lâm là Bồ Tát xí nghiệp. Bà tổng giám đốc Lưu Khắc Thành ở Thanh Đảo cũng áp dụng Đệ Tử Quy vào toàn thể công ty, công nhân hơn một ngàn người  biến thành người một nhà, bà ta thật sự làm được, thật sự vận dụng, Bồ Tát xí nghiệp đấy. Hành cúng dường quan trọng hơn bất cứ thứ ǵ khác, thật sự hành, thật sự làm, đó là thật. Làm không được th́ hằng ngày niệm kinh, hằng ngày nghe kinh giáo, nhưng làm không được th́ vô dụng, chẳng phải là lợi ích chân thật. Thọ () là tiếp nhận, Tŕ () là ǵn giữ chẳng để mất, Tu () là sửa chữa, Hành () là hành vi. Trước đây, trong cách nghĩ và cách làm để lo toan nhà cửa, kinh doanh sự nghiệp của quư vị đă sai trật, nay đă giác ngộ, hiểu rơ, bèn nương theo phương pháp của Phật, nương theo phương pháp trong Đệ Tử Quy và Cảm Ứng Thiên để uốn nắn, vun bồi bền vững ba căn bản ấy trong gia đ́nh, trong sự nghiệp, vận dụng Phật pháp đă học tập, khiến cho tất cả nhân công và mọi người đều đạt được lợi ích nơi pháp, đó là tu hành.

            “Chân Giải viết: Năng du vô lượng Phật độ, hưng cúng dường vân, cố vân cúng dường chư Phật” (Sách Chân Giải nói: “Có thể dạo trong vô lượng cơi Phật, nổi mây cúng dường, nên nói là cúng dường chư Phật”). Sau chữ Cúng Dường dùng chữ Vân (), trong kinh Phật dùng chữ này rất nhiều, chữ này tượng trưng điều ǵ? Tượng trưng “chẳng chấp tướng”, là Căn Bản Trí. Mây chẳng phải Không, chẳng phải Có. Chúng ta ở trên mặt đất thấy mây là có, nhưng quư vị ngồi máy bay đến đó, thấy nó chẳng có. V́ vậy, nó tượng trưng điều ǵ? H́nh tướng dường như có, nhưng trên thực tế chẳng có, biểu thị ư nghĩa này. [Điều ấy] dạy quư vị trong cuộc sống hằng ngày, dẫu làm nhiều chuyện tốt đẹp đến mấy, tâm địa quư vị phải thanh tịnh, chớ nên chấp tướng, hễ chấp tướng là trật rồi. Mây tượng trưng “không chấp trước, chẳng phân biệt”, ư nghĩa càng sâu hơn là “chẳng khởi tâm, không động niệm”, biểu thị điều này. V́ vậy, “hưng cúng dường vân” (nổi mây cúng dường) là tự hành, sau khi tự hành phải biết hóa tha, giúp đỡ người khác, “khai đạo quần sanh”. “Như Duy Ma kinh viết: Tuy tri chư Phật quốc cập chúng sanh không” (như kinh Duy Ma nói: “Tuy biết các cơi Phật và chúng sanh là không”), phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng, “nhi thường tu Tịnh Độ, giáo hóa chúng sanh. Thị danh khai đạo quần sanh” (nhưng thường tu Tịnh Độ, giáo hóa chúng sanh. Đó là khai đạo quần sanh). Biết cơi nước cũng là rỗng không, chúng sanh cũng là rỗng không, nhưng Bồ Tát giáo hóa chúng sanh, chỉ dạy chúng sanh, nêu gương tốt cho chúng sanh chẳng ngưng nghỉ ngày nào, chẳng tiêu cực, làm hết sức tích cực, phải hiểu ư nghĩa này. V́ vậy, tự hành rồi sau đó mới có thể hóa tha. Chính ḿnh chưa làm được, mà dạy kẻ khác làm, kẻ khác chẳng tin, bảo quư vị là giả dối, lừa gạt họ. Chính quư vị đă thật sự làm được, sau đấy dạy họ, họ sẽ cảm ơn, thật sự học tập theo quư vị, v́ sao? Thấy quư vị quá tốt, quả thật là cao minh hơn ta, làm tốt hơn ta nhiều quá, ta phải nên học theo quư vị. V́ thế, ở phía sau có một câu này, nói lên sứ mạng của Phật, Bồ Tát trong thế gian này, chẳng có ǵ khác. “Khai” là khai khải (啟: khơi gợi), “đạo” là dẫn đạo (引導: dẫn dắt, hướng dẫn ), khơi gợi hết thảy chúng sanh đoạn ác tu thiện, phá mê khai ngộ, giúp xă hội khôi phục an định, ḥa hài. Giáo dục truyền thống Trung Quốc đă nói: “Tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ”. Chữ “gia” của Trung Quốc trước đây có thể thay thế bằng xí nghiệp trong hiện thời, v́ [xí nghiệp] là một đại gia đ́nh, kinh doanh xí nghiệp là kinh doanh một đại gia đ́nh. Một đại gia đ́nh mà thứ ǵ cũng đều đúng pháp th́ chính là cống hiến lớn nhất đối với xă hội và quốc gia, đem lại sự an tường, ḥa thuận trong xă hội, đem lại ḥa b́nh cho thế giới. Mục tiêu chung cực là thấu hiểu Phật pháp, hăy nên thường tu Tịnh Độ, để đời sau chẳng c̣n luân hồi trong lục đạo. Đấy mới là thật sự rốt ráo. Phải có thương nhân Bồ Tát tại gia thật sự kinh doanh sự nghiệp này, thúc đẩy xă hội, đó là chuyện tốt đẹp. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới đây.

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 57 hết



[1] Đây là một thành ngữ “nhất vấn, tam bất tri” (一問,三不知),tức là hỏi đến sự việc ǵ đều chẳng biết nguyên nhân, diễn biến và kết quả của sự việc ấy. Về sau, thường dùng thành ngữ này với ư nghĩa “hỏi ǵ cũng chẳng biết, ù ù cạc cạc”. Thành ngữ này phát xuất từ một câu chuyện được chép trong bộ Tả Truyện, phần ghi chép sự kiện vào năm thứ hai mươi bảy đời Lỗ Ai Công. Theo đó, vào năm 468 trước Công Nguyên, đại phu Tuân Dao nước Tấn đem quân phạt Trịnh. Nước Trịnh chống không nổi nên sai quan đại phu là Công Tử Ban sang Tề cầu cứu. Tề B́nh Công chẳng muốn Tấn do thôn tính Trịnh mà lớn mạnh thêm, sẽ uy hiếp nước Tề, bèn sai quan đại phu là Trần Thành Tử dẫn quân cứu viện. Khi Trần Thành Tử dẫn quân đến bờ sông Đạt Truy, trời mưa to, sĩ tốt chẳng muốn dầm mưa vượt sông. Viên hướng đạo nước Trịnh là Tử Tư nói: “Quân Tấn đă kéo sát đến chân thành nước Trịnh, vua quan nước Trịnh mong ngóng quân Tề sớm đến cứu nguy. Nếu chẳng tiến lên, e rằng chẳng cứu kịp”. Trần Thành Tử bèn khoác áo tơi, cầm mâu xông lên dẫn quân tiến gấp, sẵn sàng giao chiến cùng quân Tấn. Nguyên soái Tuân Dao của quân Tấn thấy quân Tề nghiêm chỉnh, oai vũ, kinh sợ, bảo các bộ tướng: “Ta bói thấy sẽ đánh nước Trịnh, chẳng bói thấy sẽ giao chiến cùng quân Tề. Quân họ sắp đặt tề chỉnh, ta sợ đánh không lại”. Các bộ tướng cũng tán thành, chủ trương lui binh. Tuân Dao vừa hạ lệnh lui quân, vừa sai sứ giả bái kiến Trần Thành Tử. Sứ giả nói: “Nước Tấn xuất quân lần này thật ra là v́ báo thù cho Ngài. Ḍng họ Ngài từ nước Trần lưu lạc sang Tề. Tuy Trần bị Sở diệt quốc, nhưng đó là tội của nước Trịnh. Do vậy, vua nước tôi sai người đến Trịnh để điều tra nguyên nhân khiến nước Trần diệt quốc và chia sẻ nỗi buồn với Ngài”. Trần Thành Tử biết là dối trá, đuổi sứ giả về. Khi ấy, một bộ tướng của Trần Thành Tử là Tuân Dần nói: “Tôi nghe nói nước Tấn toan đem một ngàn cỗ chiến xa tiêu diệt quân Tề”. Trần Thành Tử nói: “Dẫu cho một ngàn cỗ chiến xa xông tới, chúng ta chẳng thể không giao chiến. Lời ông vừa nói chính là làm nhụt ư chí quân ta, tăng khí thế cho quân địch, ta sẽ tâu lại với vua”. Tuân Dần biết ḿnh lỡ lời, bèn than: “Quân tử chi mưu dă, thỉ, trung, chung, giai cử chi, nhi hậu nhập yên. Kim ngă tam bất tri nhi nhập chi, bất diệc nạn hồ” (kẻ quân tử mưu tính, ắt đều xét đến khởi đầu, diễn biến và kết thúc, rồi mới tính mưu kế. Nay ta cả ba điều đều chẳng biết mà đă chen vào tính toán, cũng chẳng gặp trắc trở ư?)

[2] Trong H́nh Học, điểm và đường là các khái niệm trừu tượng. Điểm được định nghĩa là “một phần không gian có mọi chiều kích thước bằng zero”. Do vậy, khi ta vẽ h́nh tṛn, chấm tâm h́nh tṛn dễ dàng, nhưng do cái chấm ấy có kích thước nhất định (dù rất bé), nó chẳng phải là điểm, nên chẳng phải là tâm h́nh tṛn. Đường được định nghĩa là “tập hợp của nhiều điểm” nhưng không có bề rộng. Khi ta vẽ một đường, do nó có bề rộng nhất định (dù rất bé hầu như không thấy được bằng mắt thường), nên nét vẽ ấy chẳng phải là đường.

[3] Ngọc Môn Quan c̣n gọi là Tiểu Phương Bàn Thành, là một cửa ải trọng yếu của Trung Quốc nằm trên tuyến đường Tơ Lụa, là đường giao thông trọng yếu sang Tây Vực. Ngọc Môn Quan ở về phía Tây Bắc thành phố Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc. Cửa ải này được thành lập từ đời Hán. Tuy gọi là Quan, nhưng đây không phải là đường đèo, mà là một cửa thành phân cách Trung Hoa với các nước Tây Vực.